Tết của người Khmer Nam Bộ

Tết của người Khmer Nam Bộ
Dâng cơm lên chư tăng trong ngày Tết cổ truyền Chôl Chhnăm Thmây của đồng bào Khmer
Dâng cơm lên chư tăng trong ngày Tết cổ truyền Chôl Chhnăm Thmây của đồng bào Khmer


Như thế, ý nghĩa đón tết của người Khmer cũng không khác gì ý nghĩa ngày tết cổ truyền của các dân tộc khác, tuy cách tổ chức và tập tục có khác nhau. Song, vì người Khmer là dân tộc theo đạo Phật, coi ngôi chùa như một trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, do vậy mà ngoài một số lễ nghi được tổ chức tại từng nhà, phần lớn bà con đều tập trung tại chùa để thực hiện các nghi thức, nghi lễ và cùng sinh hoạt vui chơi giải trí tại đó. Vì thế, trước thời điểm của những ngày tết khoảng từ một tháng đến một tuần, tại hầu hết các ngôi chùa Khmer, cũng như tại từng hộ gia đình, người ta tiến hành dọn dẹp nhà cửa thật sạch sẽ, ngăn nắp, đôi khi người ta còn phải tu bổ lại một số công trình kiến trúc trong chùa cho thật khang trang, nhất là các ngôi tháp thờ hài cốt của thân nhân họ hàng để làm sao đón mừng năm mới thật có ý nghĩa… Riêng đối với từng gia đình trong phum sóc, ngoài việc dọn dẹp nhà cửa, bà con còn chuẩn bị các loại bánh trái như: bánh tét, bánh ít, bánh gừng, hoa quả, nhang đèn để đem vào chùa dâng cúng cho Chư Phật, các vị Chư Tăng, thánh thần; đồng thời cũng để tiếp khách khi có người đến thăm 

 
Nghi thức rước Maha Sangkran (đại lịch) đánh dấu giây phút giao thừa, chuyển giao giữa năm cũ và năm mới
Nghi thức rước Maha Sangkran (đại lịch) đánh dấu giây phút giao thừa, chuyển giao giữa năm cũ và năm mới

Nếu người Việt, người Hoa và một số dân tộc khác ở Châu Á đón tết năm mới vào ngày đầu tháng giêng âm lịch, thì người Khmer Nam bộ lại tổ chức đón tết vào tháng “Chét” (tháng thứ 5 theo lịch Khmer)[1], vào khoảng trung tuần tháng 4 dương lịch, tương ứng khoảng từ 12 đến 16 tháng 4 dương lịch và diễn ra trong thời gian 3 ngày đêm. Đây là thời điểm thời tiết rất khô ráo, mùa màng đã gặt hái xong, là lúc các thành viên trong cộng đồng được rảnh rang, thoải mái nhất. Trước đây, người Khmer tổ chức đón năm mới vào tháng đầu tiên của năm – tháng Mic-ka-sê (tương ứng khoảng tháng 12, tháng 1 dương lịch), tuy nhiên do thấy vào thời điểm này mùa mưa vẫn còn chưa dứt hẳn, gây nhiều khó khăn trong việc vui chơi 3 ngày tết, nên về sau này[2] người Khmer đã dời thời điểm đón tết vào mùa khô như hiện nay.

Theo phong tục, người Khmer thường tổ chức “ăn tết” trong thời gian 3 ngày, song có những năm nhuận thì bà con tổ chức 4 ngày. Ngày đầu tiên của năm mới gọi là “Th’ngay-maha-shang-kran” hoặc “Chôl-shang- kran-thmây”; ngày thứ hai gọi là ngày “Ví-ré Won-both”; (năm nhuận thì Won-both 2 ngày); còn ngày cuối gọi là ngày “Ví-ré Lơng-săk”[1]. Sinh khí tết chỉ thật sự tới khi mọi nhà, mọi chùa tiến hành nghi lễ đón giao thừa. Đối với người Khmer, việc đón giao thừa có phần khác đôi chút so với người Kinh, người Hoa hoặc một số dân tộc khác chịu sự ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, văn hóa Phương Tây. Nghĩa là giờ giao thừa của tết người Khmer không cố định vào lúc 0 giờ tiếp giáp giữa năm cũ và năm mới, mà luôn thay đổi hàng năm tùy vào quyển “Đại lịch”  đã được các nhà thiên văn biên soạn. Tức là thời khắc chuyển giao giữa năm cũ và năm mới sẽ được ấn định vào những thời điểm khác nhau theo từng năm. Có năm nó được ấn định vào lúc 13 giờ của ngày đầu tiên, có năm thì rơi vào ban đêm, có năm thì lại vào khoảng 9 hoặc 10 sáng của ngày thứ hai... Có thể nói đây cũng là nét riêng, phản ánh rất rõ về sắc thái văn hóa Khmer.
 
Đồng bào Khmer ở xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) gói bánh tét nhân dịp lễ vào năm mới
Đồng bào Khmer ở xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) gói bánh tét nhân dịp lễ vào năm mới

Theo truyền thống, gần đến thời khắc giao thừa, mọi nhà (kể cả tại các chùa chiền) sẽ bày ra các thứ lễ vật hoa quả[1]; nhang đèn đặt trên một chiếc bàn ở ngay trước sân nhà để làm lễ tiễn Tevôđa (Chư Thiên) cũ về trời, rước Tevôđa mới giáng trần. Người Khmer tin rằng Tevôđa chính là vị Chư Thiên ngự ở tầng trời, được thần Prés-anh (Ngọc Hoàng) sai xuống trần gian để chăm lo cho dân chúng và muôn loài trong một năm, hết năm lại đưa các vị khác xuống thay thế. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay tại việc tổ chức nghi thức này không còn long trọng và linh thiêng như các thời kỳ trước đây.Ba ngày lễ chính thức của tết Chôl-chnăm-thmây được diễn ra như sau:

                                             * Ngày thứ nhất “Th’ngay Maha-shang-kran”:

Thường được bắt đầu khoảng từ 7 giờ sáng hoặc 5 giờ chiều, tức phải vào giờ tốt, khi đó bà con Khmer sẽ ăn vận sạch đẹp, mang theo nhang đèn cùng một số lễ vật cần thiết khác đi đến chùa để làm kễ rước quyển Đại Lịch “Maha-shang-kran” mới. Tại đây, dưới sự điều khiển của một vị Acha[1], mọi người sẽ đứng xếp theo hàng (từ 2 hàng trở lên) rồi đi vòng quanh Chánh Điện 3 vòng theo chiều kim đồng hồ để làm lễ chào mừng năm mới và cũng để xem năm mới này tốt hay xấu, thuận lợi khó khăn như thế nào... Bởi lẽ, ngay sau khi làm lễ rước lịch Maha-shang-kran, vị Acha sẽ đọc ngay nội dung được ghi trong đó, dự báo về các hiện tượng tự nhiên sẽ xảy ra trong năm như: lượng mưa, lũ lụt, giông gió, sấm chớp… để cho mọi thành viên trong cộng đồng chuẩn bị tâm thế trong vụ mùa mới sắp được bắt đầu.

Nghi thức rước Maha-shang-kran thường được dựa theo huyền thoại Bà-la-môn “Thomabal-Koma và Kabâl Maha-prum”. Chuyện kể rằng, chàng trai Thomabal- Koma thông minh tài giỏi đã chiến thắng trong một cuộc đấu lý với Kabal Maha-prum là vị thần có bốn gương mặt, chuyên xuống trần gian thuyết pháp dạy đời. Thua cuộc, thần đã tự chặt đầu mình, đưa cho 7 cô công chúa[1] là con gái của mình và căn dặn hãy để đầu thần trên một khay vàng, rồi đem đi quàng tại hang thủy tinh Thomamialy nơi núi Kay-las thuộc dãy Hymalaya, không được quăng đầu Ngài xuống biển hay lên núi rừng, hoặc vào không trung. Bởi chiếc đầu Ngài khi rơi vào những không gian đó sẽ thiu rụi mọi thứ, đúng hơn là sự đau khổ và cái chết sẽ không tránh khỏi. Suy cho cùng, thì đầu bốn mặt của thần Kabal Maha-prum chính là biểu tượng của bốn đức tính: Từ, Bi, Hỉ, Xả mà mọi người, cả loài súc sinh luôn phải có trong mình nhằm đạt được cuộc sống viên mãn.

Từ đó về sau, mỗi năm, đúng vào ngày thần tự sát, bảy cô công chúa giáng trần, vào hang bưng khay đầu lâu của cha đến núi Kay-las (Tudi) gội rửa, rồi đi vòng quanh chân núi 3 lần theo hướng mặt trời mọc, trước khi đem đặt lại vị trí cũ. Đây cũng là biểu tượng cho sự sinh sôi, phát triển (bởi con số 3 là số dương, là số đại diện cho sự sung túc no đủ). Mỗi năm một cô công chúa sẽ bưng khay đầu lâu một lần, nên tùy theo số mạng của công chúa Tiên nữ nào bưng mà người ta sẽ biết được năm đó tốt hay xấu.

Thay vì rước đầu lâu, đối với người Khmer Nam bộ vào dịp ngày đầu năm mới bà con lại rước Maha-shang-kran (Quyển Đại lịch) đi vòng quanh ngôi chánh điện 3 vòng theo như huyền thoại trên. Sau lễ rước Maha-shang-kran, mọi người vào lễ Phật, tụng kinh mừng năm mới. Đến đêm thì tiếp tục nghe nhà sư thuyết pháp. Riêng các chàng trai, cô gái sau khi thắp nhang lễ Phật, họ cùng dạo chơi trong khuôn viên chùa hoặc để xem hay cùng tham gia các cuộc vui chơi múa hát.


Tắm Phật là nghi lễ quan trọng trong dịp lễ vào năm mới của đồng bào Khmer Nam Bộ
Tắm Phật là nghi lễ quan trọng trong dịp lễ vào năm mới
của đồng bào Khmer Nam Bộ


* Ngày thứ hai của lễ Chôl-chnăm-thmây “Ví-ré Won-both”:

Trong ngày thứ hai, không khí tết thật sự đã sôi động hẳn lên trong khắp các phum sóc Khmer cũng như tại cac chùa chiền. Ngay từ sáng sớm, mọi người đã kéo nhau vào chùa, trước hết họ thắp hương, lễ Phật, sau đó dâng cơm cho các vị sư… Riêng các chàng trai, cô gái thì tổ chức các trò chơi dân gian, rồi cùng nhau chia nhóm vui chơi cho đến chiều tối. Hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long, tại một số chùa điển hình như chùa Sereyvongsa (Hòa Bình Mới) huyện Hòa Bình, chùa Komphisako (Xiêm cán) thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu đồng bào thường tổ chức các trò chơi dân gian trong suốt 3 ngày liền. Bên cạnh các trò chơi truyền thống như Chôl-chhung (Ném còn), kéo co, đẩy cây, Lek-kon-sêng (Bịt mắt bắt dê)… họ còn đưa vào thi đấu một số môn thể thao khác như bóng đá mini, bóng chuyền và nhiều trò chơi mang tính hiện đại mà ta thường bắt gặp tại các cuộc sinh hoạt của tuổi trẻ đoàn viên thanh niên.

Cũng trong ngày thứ hai này, đặc biệt vào lúc chiều, người ta thường tổ chức lễ đắp núi cát gọi là “Pun-phnum-kh’sach”. Đây là một tập tục theo quan niệm của người Khmer cho rằng, nó sẽ mang lại cái Anishang (Phúc) rất lớn. Theo thông lệ, thì mọi người đến dự lễ sẽ mang theo một ít cát sạch đem vào chùa, đổ thành đống chung quanh ngôi chánh điện. Vị Acha hướng dẫn mọi người đắp thành những ngọn núi nhỏ ở chín hướng và rào lại bằng tre hoặc cây. Những núi này tượng trưng cho vũ trụ, mỗi núi ở một hướng và núi thứ 9 ở giữa là trung tâm của thế giới. Sau đó người ta làm lễ “qui y” cho núi và đến sáng hôm sau thì làm lễ “xuất thể”. Một ý nghĩa khác cho rằng tục đắp núi cát (hoặc núi đất, núi thóc…) là biểu hiện của ma thuật, vì xưa kia người Khmer tin rằng núi có thể cản mây và do đó đắp núi là để ngăn lại các đám mây, cầu cho mưa mau đến để bà con khởi sự làm mùa.
 
Đắp núi cát với mong ước tẩy trừ những điều xấu trong năm cũ và cầu mong những điều tốt lành trong năm mới
Đắp núi cát với mong ước tẩy trừ những điều xấu trong năm cũ và cầu mong những điều tốt lành trong năm mới

                                    * Ngày thứ 3 của lễ Chôl-chnăm-thmây “Ví-ré Lơng-săk”:

Là ngày lễ “Tắm tượng Phật, tắm sư sãi”. Cũng như những ngày trước đó, sau khi dâng cơm sáng và trưa cho các vị sư, mọi người đem nước ướp vật có hương thơm cùng nhau đem đến bên bàn thờ Phật để làm lễ tắm tượng Phật, kế tiếp là tắm cho các vị sư cao niên. Xong lễ tại chùa, người ta mời các vị sư đến các ngôi tháp đựng hài cốt hoặc tới các ngôi mộ lẻ làm lễ cầu siêu, gọi là “Băng Skôl” cho vong linh những người đã khuất. Tuy nhiên nhiều chùa còn tổ chức lễ cầu siêu chung cho tất cả những người đã khuất một lần tại ngôi Sala hay tại ngôi tháp tập thể. Cuối cùng họ về nhà làm lễ tắm tượng Phật thờ tại nhà, xong thì tắm cho ông bà cha mẹ để tạ lỗi, xin được tha thứ những lỗi lầm, thiếu sót trong năm cũ, rồi đem bánh trái, tiền, quà dâng cho ông bà, cha mẹ. Đến đêm họ tiếp tục cúng bái Têvôđa mới hoặc có những gia đình còn mời các vị sư đến tụng kinh chúc phúc để năm mới phát tài phát lộc. Đồng thời họ tổ chức vui chơi cho đến khuya mới chấm dứt.

Có thể nói, các nghi thức, lễ tiết trong những ngày tết cổ truyền của người Khmer Nam bộ hiện vẫn còn lưu giữ khá tốt. Riêng lễ tắm sư sãi có nhiều chùa không còn tổ chức mà chỉ làm lễ tắm tượng Phật. Bởi trong phần lớn các ngôi chùa Khmer hiện nay không còn nhiều các bậc Hòa thượng cao niên./.

  

Có thể bạn quan tâm

Giữ lửa nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Mông trên đỉnh Hang Kia – Pà Cò

Giữ lửa nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Mông trên đỉnh Hang Kia – Pà Cò

Nằm trong vùng núi cao của huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, xã Hang Kia và Pà Cò là nơi sinh sống của cộng đồng dân tộc Mông, một dân tộc có nền văn hóa lâu đời với những giá trị truyền thống đặc sắc. Trong đó, nghề dệt, thêu thổ cẩm là một phần quan trọng trong đời sống của người dân nơi đây.

Nét đẹp văn hóa trong trang phục của phụ nữ Hà Nhì

Nét đẹp văn hóa trong trang phục của phụ nữ Hà Nhì

Với sự tài hoa trong nghệ thuật thêu, can, ghép vải trên trang phục, người Hà Nhì đã tạo ra nét độc đáo riêng cho trang phục truyền thống của dân tộc mình, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú trong bản sắc văn hóa các dân tộc tỉnh Điện Biên.

Kinh lá buông - “báu vật” của đồng bào Khmer An Giang

Kinh lá buông - “báu vật” của đồng bào Khmer An Giang

Là một trong Tam bảo của Phật giáo Nam Tông Khmer, kinh lá buông được xem như “báu vật” có giá trị đặc biệt trong đời sống tâm linh của đồng bào Khmer vùng Bảy núi An Giang. Kinh lá buông không chỉ là tài liệu ghi chép về các nghi lễ tôn giáo mà còn là kho tàng tri thức về văn học, y học, lịch pháp cũng như những câu chuyện dân gian phản ánh cuộc sống của cộng đồng.

Đặc sắc trang phục truyền thống của phụ nữ Pà Thẻn

Đặc sắc trang phục truyền thống của phụ nữ Pà Thẻn

Là dân tộc sống lâu đời trên vùng núi cao, người Pà Thẻn vẫn lưu giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống, đặc biệt là trang phục của phụ nữ với màu sắc, họa tiết hoa văn đặc trưng, tạo nên nét độc đáo riêng.

Đặc sắc lễ mừng cơm mới của đồng bào Mường ở Miền Đồi

Đặc sắc lễ mừng cơm mới của đồng bào Mường ở Miền Đồi

Lễ mừng cơm mới là một trong những nghi lễ truyền thống quan trọng và mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc của đồng bào dân tộc Mường. Đây là dịp để tạ ơn thần linh, tổ tiên đã ban cho một vụ mùa bội thu, đồng thời cũng là cơ hội để cộng đồng gắn kết, gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc.

Ẩm thực của người Ê-đê

Ẩm thực của người Ê-đê

Người Ê-đê trên Cao nguyên Đắk Lắk không chỉ có truyền thống văn hóa lâu đời mà còn có nền ẩm thực đặc sắc với những món ăn độc đáo, là sự hòa quyện của hương vị núi rừng. Ẩm thực của người Ê-đê là sự hòa trộn tinh tế của các loại thực phẩm sẵn có của địa phương, các loại thảo mộc, gia vị cùng phong cách nấu nướng và chế biến đặc biệt.

Đồng bào Chăm Ninh Thuận vui đón lễ hội Katê 2024

Đồng bào Chăm Ninh Thuận vui đón lễ hội Katê 2024

Chiều 1/10, Lễ hội Katê năm 2024 của đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn tỉnh Ninh Thuận đã khai mạc tại sân vận động thôn Hữu Đức (xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước). Đông đảo đồng bào Chăm, người dân và du khách tham dự sự kiện văn hóa truyền thống đặc sắc này.

Giữ gìn nghề đan lát truyền thống của người Khơ Mú ở bản Kéo

Giữ gìn nghề đan lát truyền thống của người Khơ Mú ở bản Kéo

Bản Kéo, xã Pá Khoang, thành phố Điện Biên Phủ (Điện Biên) có 100% là đồng bào dân tộc Khơ Mú, với 90 hộ và hơn 500 nhân khẩu. Hiện nay cả bản còn khá nhiều hộ còn đang giữ nghề đan lát của dân tộc Khơ Mú. Để giữ gìn nghề truyền thống của cha ông, bản Kéo đã thành lập được một câu lạc bộ đan lát truyền thống với hơn 20 thành viên, chủ yếu là người cao tuổi trong bản.

Để tiếng khèn ngân vang trên cao nguyên đá

Để tiếng khèn ngân vang trên cao nguyên đá

Tủa Chùa là huyện vùng cao của tỉnh Điện Biên có đông đồng bào dân tộc Mông sinh sống. Tiếng khèn từ lâu đã "ngấm sâu" vào máu thịt đồng bào Mông nơi đây. Âm thanh của khèn du dương, tình cảm, mộc mạc như chính cuộc sống của người dân vùng cao nguyên đá. Họ đã truyền dạy cách chế tác để loại nhạc cụ này lưu truyền giá trị văn hóa cho các thế hệ khác.

Độc đáo lễ cúng chiêng mới của đồng bào Jrai

Độc đáo lễ cúng chiêng mới của đồng bào Jrai

Trong văn hóa người Tây Nguyên, cồng chiêng là món ăn tinh thần không thể thiếu tại các lễ, hội. Hiện tại các buôn làng ở Gia Lai có những bộ cồng chiêng tuổi đời hàng chục thậm chí hàng trăm năm, ghi dấu biết bao thay đổi của đồng bào nơi đây.

Đỏ lửa giữ nghề rèn của người Mông ở Điện Biên

Đỏ lửa giữ nghề rèn của người Mông ở Điện Biên

Nghề rèn là một trong những nghề truyền thống lâu đời gắn liền với hoạt động sản xuất của người Mông ở Điện Biên. Đôi bàn tay khéo léo của các nghệ nhân đã tạo ra nhiều sản phẩm chủ yếu là các công cụ lao động sản xuất hàng ngày như: dao, rìu, liềm, thuổng, cuốc, xẻng...

Thầy cúng và già làng người Brâu làm lễ cúng Trỉa lúa. Ảnh: Khoa Chương

Lễ cúng Trỉa lúa của người Brâu ở Kon Tum

Brâu là một trong năm dân tộc rất ít người đang sinh sống tại làng Đăk Mế, xã Pờ Y, huyện Ngọc Hồi (Kon Tum). Xuất phát từ yếu tố mùa vụ và tín ngưỡng đa thần, cộng đồng người Brâu nơi đây đã lưu giữ một kho tàng văn hóa truyền thống độc đáo, trong đó nổi bật là Lễ cúng Trỉa lúa.

Say đắm điệu múa bát của người Tày

Say đắm điệu múa bát của người Tày

Múa bát là điệu múa cổ của người Tày tỉnh Bắc Kạn. Đây là nghệ thuật trình diễn dân gian quan trọng trong dịp Tết, lễ hội truyền thống hằng năm. Múa bát không chỉ mang tính giải trí mà còn cổ vũ, động viên tinh thần đồng bào hăng say lao động, sản xuất.

Đặc sắc đám cưới của đồng bào Giẻ Triêng

Đặc sắc đám cưới của đồng bào Giẻ Triêng

Với mục địch lan tỏa và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số, tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào Giẻ Triêng đến từ tỉnh Kon Tum đã tổ chức tái hiện phong tục cưới đặc sắc của dân tộc mình.

Những tấm vải thổ cẩm với họa tiết, hoa văn đặc trưng của cộng đồng dân tộc Lào ở Điện Biên. Ảnh: Xuân Tư – TTXVN

Lưu giữ nghề dệt thổ cẩm của đồng bào Lào ở Điện Biên

Nằm yên bình bên dòng Nậm Núa, bản Na Sang 1 và 2, xã Núa Ngam, huyện Điện Biên (tỉnh Điện Biên) là nơi sinh sống của gần 200 hộ đồng bào dân tộc Lào. Hiện nay, cộng đồng người dân tộc Lào ở Na Sang vẫn còn lưu giữ nghề truyền thống dệt thổ cẩm. Ban đầu, người dân chỉ dệt trang phục cho bản thân, tuy nhiên, những năm gần đây, nhận thấy nghề dệt không chỉ là bản sắc mà còn mang lại nguồn thu nhập ổn định, nhiều phụ nữ ở đây đã cùng nhau gìn giữ, phát huy nghề truyền thống của dân tộc mình.

Nét đẹp trong trang phục truyền thống phụ nữ dân tộc Cống ở Điện Biên

Nét đẹp trong trang phục truyền thống phụ nữ dân tộc Cống ở Điện Biên

Trang phục truyền thống của người Cống ở Điện Biên được xuất phát từ nhu cầu của đời sống thường ngày, thể hiện sự sáng tạo của con người. Không những vậy, bộ trang phục còn ẩn chứa những giá trị văn hóa tinh thần và xã hội, gắn bó với sinh hoạt, nếp sống văn hóa của gia đình, cộng đồng. Cách trang trí, chắp ghép vải tinh tế, độc đáo, đường thêu hoa văn tinh tế, khéo léo đã thể hiện tính thẩm mỹ dân gian, phản ánh giá trị lịch sử, văn hóa của dân tộc Cống.

Độc đáo Lễ hội tấc ka coong

Độc đáo Lễ hội tấc ka coong

Ngày 16/5, Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên - Huế, UBND huyện A Lưới tổ chức chương trình tái hiện trích đoạn sân khấu hóa Lễ hội tấc ka coong - cúng thần núi của dân tộc Cơ Tu huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Vẻ đẹp trang phục người Hà Nhì ở đại ngàn Y Tý

Vẻ đẹp trang phục người Hà Nhì ở đại ngàn Y Tý

Nằm ở độ cao 2.000m so với mực nước biển, xã Y Tý, huyện Bát Xát (Lào Cai) là nơi sinh sống chủ yếu của đồng bào Hà Nhì đen. Người Hà Nhì còn lưu giữ nhiều nét văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, trong đó có trang phục truyền thống thể hiện giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật... cũng như phong tục, tập quán, sinh hoạt của cộng đồng, ước vọng về cuộc sống tốt đẹp.

Độc đáo tranh kính của đồng bào Khmer

Độc đáo tranh kính của đồng bào Khmer

Đồng bào dân tộc Khmer xưa nay không chỉ nổi tiếng với những loại hình nghệ thuật như hát Dù Kê, Rô Băm với những công trình kiến trúc mang nét độc đáo theo lối kiến trúc Phật giáo Nam tông mà còn được biết đến với một nghề đặc biệt đó là vẽ tranh trên kính.

Đặc sắc lễ cầu mưa của đồng bào Lô Lô đen

Đặc sắc lễ cầu mưa của đồng bào Lô Lô đen

Chào mừng Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2024) và Ngày Quốc tế Lao động (1/5), tại Làng Văn hóa – Du lịch các dân tộc Việt Nam, đồng bào Lô Lô đen đến từ tỉnh Cao Bằng đã giới thiệu lễ cầu mưa đặc sắc thể hiện tín ngưỡng vạn vật hữu linh của dân tộc mình.

Nghi lễ cúng rừng dưới gốc cây táu mật cổ thụ. Ảnh: Tuấn Anh

Ăn “Tết rừng” với người Mông ở Nà Hẩu

Với người Mông ở xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên (Yên Bái) thì “Tết rừng” (còn gọi là lễ cúng Thần rừng) có từ khi tổ tiên của họ di cư đến đây lập bản, lập làng. Theo truyền thống, cứ vào ngày cuối cùng của tháng Giêng âm lịch, các bản, làng trong xã Nà Hẩu lại tụ họp về khu "rừng cấm, rừng thiêng” để cùng tổ chức "Tết rừng”. Đây không chỉ là nghi lễ mang ý nghĩa tâm linh cầu phúc mà còn góp phần thiết thực vào việc bảo vệ rừng.

Nghi lễ cầu may của người Sán Chỉ ở Quảng Ninh

Nghi lễ cầu may của người Sán Chỉ ở Quảng Ninh

Người Sán Chỉ (thuộc dân tộc Sán Chay) ở tỉnh Quảng Ninh hiện chiếm khoảng 12% dân số toàn tỉnh, sống tập trung nhiều nhất ở xã Đại Dực (huyện Tiên Yên) và một số xã, như Lục Hồn, Húc Động (huyện Bình Liêu). 

Độc đáo nghi thức rước rể của đồng bào Ê Đê

Độc đáo nghi thức rước rể của đồng bào Ê Đê

Trong khuôn khổ các hoạt động nhân "Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam” năm 2024, tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Ê đê đến từ tỉnh Đắk Lắk đã tổ chức tái hiện nghi thức rước rể độc đáo của dân tộc mình.