Theo truyền thuyết kể lại rằng ngày xưa người X’tiêng chưa biết quấn xà rông chỉ biết lấy lá cây để che thân, cái gió cái nắng làm khô đen cả người, ông trời nhìn thấy thương quá mới cho ba ông tiên xuống dạy cho cách trồng cây lấy sợi, cách làm khung, cách dệt vải, từ đó người X’tiêng mới có cái khố, cái xà rông để mặc. Biết ơn trời đất nên người X’tiêng thường lấy màu đỏ của mặt trời và màu đen của núi, màu xanh của cây lá, làm màu chủ đạo cho các trang phục truyền thống.
Trước những 1975 đồng bào X’tiêng rất coi trong nghề dệt vải do điều kiện lịch sử lúc bấy giờ. Câu hát:
“Đàn ông không biết làm xá lấy gì mà mang
Đàn bà không biết đan lấy gì mà đắp”
đã in sâu vào trong tiềm thức mỗi một thế hệ người đồng bào X’tiêng. Trang phục truyền thống của đồng bào X’Tiêng phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan về vũ trụ, đất trời, vạn vật cũng như phong tục tập quán, sinh hoạt của cộng đồng. Loại trang phục cổ xưa nhất của cộng đồng tộc người X’tiêng được làm từ những vỏ cây rừng lành tính, không độc. Người X’tiêng tìm chúng trong rừng, bóc lớp vỏ xơ phía trong, cắt thành từng tấm, đập dập, ngâm ở suối lâu ngày để chỉ còn lại xơ trắng muốt, sau đó họ phơi khô và may thành áo bằng sợi mây rừng.
Cũng giống như các tộc người sinh sống, cưu trú trên khu vực Trường Sơn - Tây Nguyên, trang phục truyền thống của người X’tiêng cũng có sự phân chia theo giới tính nam, nữ cũng như mục đích sử dụng (thường nhật, lễ hội…) và có sự phân chia đẳng cấp giàu, nghèo. Với người đàn ông X’tiêng, chiếc khố là trang phục truyền thống của họ. Khố thường có chiều dài 1,5-2m, rộng khoảng 25-40cm, giá trị của khố được thể hiện trên hoa văn và kiểu đan. Hoa văn thể hiện trên trang phục chủ yếu là hoa văn hình học như: Hình tam giác, hình vuông, hình thoi, kể cả hình người…. tương ứng với nhu cầu và đẳng cấp. Trong những dịp lễ hội người đàn ông X’tiêng thường mặc khố dài từ 2m -5m, rộng 30cm, hai mảnh tước và sau phủ tận mắt cá chân. Khố dài thường dệt bằng vải bông, hoa văn trang trí được làm từ chỉ màu, hạt chì, hạt cây và đính thêm lục lạc bằng đồng ở viền. Để có một tấm khố dài, người phụ nữ X’tiêng cùng với khung dệt thô sơ phải mất ít nhất một vài tháng cặm cụi mới dệt xong chiếc khố để sử dụng trong sinh hoạt cũng như trong mỗi dịp bon, sóc tổ chức các nghi lễ.
Thiếu nữ X'tiêng. Ảnh: TL |
Khi đàn ông X’tiêng mặc khố một tay giữ một đầu khố ở phía trước bụng, phần còn lại luồn qua hai chân ra phía sau, vòng lên phía hông phải, quấn quanh bụng và luồn qua mảnh khố phía trước hai vòng, phần còn lại sẽ được giắt ngược lên giữ phần khố đi qua hai chân với các vòng quấn phía trên, sau đó thả xuống phía sau tạo thành hai mảnh vải che trước và sau.
Ngày xưa người phụ nữ X’tiêng thường để ngực trần, mặc váy hở hoặc váy kín, khi trời xe lạnh họ quấn thêm tấm váy ngắn lên nửa người để tránh cái se lạnh của núi rừng Nam Trường Sơn. Trong lễ hội hoặc khi có khách lạ vào làng, phụ nữ X’tiêng thường mặc kiểu váy dài quần cao quá ngực, mép dưới phủ đến cổ chân hoặc váy ngắn cùng với áo. Váy hở được tạo ra từ tấm thổ cẩm có kích thước chiều ngang (1-1,2m), chiều dọc (0,8-1m), khi sử dụng váy được cuốn quanh vùng eo, hông sau đó giắt phần nút của tấm thổ cẩm vào cạp váy.
Váy kín của ngươi phụ nữ X’tiêng được may rất đơn giản, họ sử dụng tấm vải dệt dài chừng 1,5m, rộng khoảng 50-60cm, để nguyên, quấn vào phần dưới người hoặc gấp đôi lại may thành hình ống, tùy thuộc vài kích thước từng người mà người dệt thổ cẩm ướm chừng cho phù hợp. Khi mặc, họ kéo cho vừa lưng, lấy phần dư ra lộn lại và nhét vào thắt lưng, dùng dây thắt váy thắt lại.Bên cạnh loại váy hở, kín, người phụ nữ X’tiêng còn có loại váy dài dùng để quấn quanh từ ngực trở xuống. Để cố định chiếc váy trên cơ thể, phụ nữ X’tiêng còn dùng đến dây thắt được dệt bằng sợi vải, rộng khoảng 3cm - 4cm, dài hơn 1m, được dệt khá công phu, bền chắc, thường có màu trắng màu nguyên thủy của sợi bông chen lẫn những hoa văn (hạt cườm) nhỏ màu đen nhạt. Hai đầu dây thắt váy thường có tua vai để kết những sợi cườm. Khi thắt vay người mặc giữ một đầu sợi dây bên hông chừa ra một khoảng dài chừng 10cm, sau đó quấn hai vòng qua trước bụng ra sau lưng, đè lên đầu dây đang giữ và giắt phần còn lại vào phía hông bên kia, bên dưới các vòng dây đã quấn. Hoa văn trên trang phục thường được tạo theo dải nằm ngang, các dải hoa văn chính với độ rộng không đồng đều, lớn nhất và cũng tập trung nhất là dải gần gấu váy, số còn lại được phân giữa váy và sát mép trên. Các đồ án trang trí bằng chỉ màu kết hợp tạo nên những khung dải rực rỡ trên nến sẫm của váy, chen với nó là hệ hoa văn phong phú được làm từ kỹ thuật kết cườm trắng.
Trang phục của người phụ nữ dùng trong lễ hội có hoa văn cầu kỳ, được tạo bởi các hạt chì hay cườm trắng, bên dưới gấu, viền thường đính thêm tua hạt chì, lục lạc bằng đồng để sau bước nhảy múa cùng vũ điệu cồng chiêng các chuông nhỏ lại vang lên những âm thanh vui tai, tạo nên không khí tưng bừng cho lễ hội. Rõ ràng, so với nam giới thì trang phục của người phụ nữ X’tiêng phong phú hơn.
Tuy là hình ảnh đầu tiên để nhận diện bản sắc văn hóa tộc người, nhưng trang phục lại là cái dễ dàng biến đổi. Gần đây, một số nơi, nghề trồng bông - dệt vải và may thành áo của tộc người X’tiêng xưa gần như bị loại bỏ trước sự xuất hiện của nhiều loại sợi vải hiện đại mà người ta dễ dàng có được. Bộ phận người X’tiêng đặc biệt là lớp trẻ sống gần với người Việt, đã có dấu hiệu giã từ nghề dệt trong hoạt động thủ công nghiệp của mình và sử dụng sản phẩm may mặc, mẫu mã đa dạng của người Việt. Những bộ váy áo truyền thống, những tấm đắp, quầy, khố, túi xách, địu con, khăn đội đầu… sẽ chỉ còn lại thấp thoáng trong các lễ hội truyền thống, ở những người già, mà ngày mai, chính họ cũng không biết những vật dụng ấy có còn được sử dụng không.
Theo thegioidisan.vn