Lễ cúng ruộng của người Chu Ru không cố định thời gian tổ chức mà tuyệt đối phải được sự mách bảo của thần linh qua lời thầy cúng. Thường thì từ 10 đến 15 năm mới tổ chức một lần. Có gia đình đến 30 năm mới tổ chức. Lễ vật cũng không hoàn toàn giống nhau. Có gia đình thần đòi trâu đen nhưng cũng có gia đình thần trâu trắng. Thời điểm diễn ra vào khoảng tháng 12 dương lịch trong 2 ngày đêm.
Để chuẩn bị cho lễ hội. Trước ngày lễ chính khoảng 20 ngày, gia đình bày một lễ vật gồm: 1 con gà, 2 nhánh chuối, 2 quả trứng gà, 1 chai rượu trắng cúng tại nhà chủ ruộng (cũng có trường hợp cúng tại nhà thầy cùng) với nội dung thông báo đến các thần linh ngày nào sẽ làm lễ cúng chính thức để thần linh không được đi đâu xa và cầu cho con cái trong thời gian này được khỏe chân, khỏe tay, được an toàn không bị tai nạn để chuẩn bị lễ cho thật tốt, đồng thời sẽ báo trước gia chủ phải cúng loại trâu to hay nhỏ, rượu bao nhiêu, gà bao nhiêu. Sau đó chủ ruộng phân công người đi vào rừng chặt cây cóc, lồ ô để làm cột gưng và cây nêu, phân công người dọn vệ sinh, phát quang đường ra ruộng, đào giếng lấy nước ở ruộng, mua sắm lễ vật..
Buổi sáng ngày đầu tiên của lễ hội, gia đình và mọi người tiến hành dựng cây nêu, gói bánh nếp, làm chòi cúng ở ruộng. Tối ngày hôm đó, thầy cúng bắt đầu hành lễ với trang phục truyền thống, đầu đội khăn (có những họa tiết dành riêng chỉ có ở thầy cúng) cùng với một chiếc roi mây có gắn lục lạc, một lư đốt trầm (lơ ơ pui), một bình đựng nước thơm (pơ teh), một chén có hoa văn (choăt).
Lễ hội do thầy cúng đảm nhiệm |
Lễ được bày ra gồm 1 con gà, 8 nhánh chuối, 1 mâm gỗ nhỏ đựng cơm, bánh nếp, 1 bộ cồng chiêng được treo bên cạnh. Thầy cúng khấn với nội dung xin thần linh phù hộ cho con cháu được khỏe mạnh để lo cho ngày lễ được suôn sẻ, thời tiết được thuận hòa.
Sau lễ cúng, mọi người trong gia đình và dân làng đánh cồng chiêng vui chơi tự do. Vào khoảng từ một đến hai giờ sáng, chủ nhà cùng với một số người trong gia đình và thầy cúng đem theo lễ vật gồm: 1 nhánh chuối, 1 trứng gà, 1 bầu rượu cần, 1 chai rượu trắng ra ruộng tiếp tục làm lễ. Trong lúc thầy cúng làm lễ, cả gia đình đi vòng quanh cây nêu 7 lần rồi quay về nhà. Suốt đêm hôm đó mọi người trong gia đình và dân làng cùng tụ tập vui chơi, nhảy múa, ca hát.
Sáng ngày hôm sau (đây là ngày lễ chính), trước khi giết trâu, chủ ruộng chuẩn bị 1 con gà, 1 bầu rượu cần, 1 chai rượu trắng, 1 nhánh chuối, 1 trứng gà sống đem ra chọi ngoài ruộng. Thầy cúng làm lễ cúng mời ông bà về nhận trâu để phù hộ cho gia đình có sức khỏe, mùa màng được bội thu. Trong lúc thầy cúng làm lễ, thanh niên dắt trâu ra buộc vào cột Gưng nơi đã được trang trí, chuẩn bị cùng với cây nêu từ trước. Một thầy cúng khác khấn mời các thần về nhận trâu. Giết trâu xong họ cắt lấy đầu trâu và cả bộ lòng để lên mâm gỗ, xẻ thịt trâu nấu chín mời thầy cúng tới làm lễ, sau đó chủ và khách cùng ăn uống, nhảy múa vui chơi.
Sau đó, gia chủ mổ đầu trâu lấy thịt đồng thời treo hàm trâu lên cây nêu cùng với một lễ vật nhỏ gồm: 1 trứng gà sống, 1 trứng gà chín và thịt đầu trâu nấu chín, một chóe rượu cần để thầy cúng làm lễ cúng với ý nghĩa tạ ơn thần linh vì công việc đã xong xuôi, mong thần linh phù hộ sang năm cho lúa nhiều. Sau đó họ mang toàn bộ đồ đạc ở ngoài đồng trở về nhà. Về nhà gia chủ lấy một quả trứng gà, một chai rượu trắng cúng cho những hạt gạo rơi vãi ngoài đồng, những thức ăn rơi vãi ngoài đồng quay trở về nhà của mình.
Lễ hội kết thúc, mọi người ai về nhà nấy để nghỉ ngơi và tiếp tục chuẩn bị cho vụ mùa sau. Lễ cúng ruộng thực sự là một nét đẹp văn hóa tinh thần của đồng bào dân tộc Chu ru ở Lâm Đồng.
Tên gọi khác: Chơ Ru, Kru, Thượng.
Dân số: 19.314 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynêxia, (ngữ hệ Nam Ðảo), gần với tiếng Chăm. Có một bộ phận người Chu Ru sống gần với người Cơ Ho nên nói tiếng Cơ Ho (thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me).
Lịch sử: Có lẽ xa xưa, tổ tiên người Chu Ru là một bộ phận trong khối cộng đồng Chăm; về sau, họ chuyển lên miền núi sống biệt lập với cộng đồng gốc nên thành người Chu Ru.
Hoạt động sản xuất: Người Chu Ru sống định cư, định canh trên cơ sở một truyền thống nông nghiệp từ lâu đời. Ruộng ở đây có hai loại: ruộng sình và ruộng khô. Việc làm thuỷ lợi bằng mương, phai, đê, đập được chú trọng. Vườn có trên rẫy và vườn ở gần nhà. Chăn nuôi có gia súc và gia cầm. Săn bắn, hái lượm và đánh cá là hoạt động thường xuyên. Nghề thủ công gia đình được phổ biến có đan lát, gốm thô
Ăn: Lương thực chính là gạo tẻ được nấu trong những nồi đất nung tự tạo. Lương thực phụ có ngô, khoai, sắn. Thức ăn có măng rừng, rau đậu, cá suối, chim thú săn bắn được. Thức uống có rượu cần và rượu cất. Nam nữ đều thích hút thuốc lá sợi bằng tẩu.
Mặc: Nghề dệt không phát triển nên những sản phẩm của y phục như: váy, áo, khố, mền, địu... có được đều do trao đổi với các tộc láng giềng như: Chăm, Cơ Ho, Raglai, Mạ...
Ở: Hiện tại, họ sống ở hai xã Ðơn và Loan thuộc huyện Ðơn Dương, một số khác ở huyện Ðức Trọng và Di Linh tỉnh Lâm Ðồng. Tại hai huyện An Sơn và Ðức Linh thuộc tỉnh Ninh Thuận cũng có vài ngàn người Chu Ru sinh sống. Người Chu Ru ở nhà sàn làm bằng tre, gỗ, bương, mai, lợp bằng cỏ tranh. Họ cư trú theo đơn vị làng (plei) và những gia đình thân thuộc thường xây cất nhà cửa gần gũi nhau.
Phương tiện vận chuyển: Chiếc gùi nan cõng trên lưng vẫn là phương tiện vận chuyển được sử dụng thường xuyên cho mọi người.
Quan hệ xã hội: Quan hệ chủ đạo trong cơ cấu xã hội Chu Ru là gia đình mẫu hệ với vai trò được tôn vinh là người phụ nữ, người thừa kế của gia đình, dòng họ mẹ. Nếu nhìn vào bộ máy tự quản ở các làng thì ta thấy người đàn ông đang đứng mũi chịu sào trong mọi lĩnh vực để cho xã hội được vận hành theo định hướng của ông bà xưa. Thực ra, họ đã hành động theo ý chí của người vợ, người chủ nhân ngôi nhà mà họ đang cư ngụ theo tục cưới chồng. Xã hội đã có sự phân hoá giàu, nghèo nhưng không có sự xung đột giữa hai tầng lớp ấy trong làng.
Cưới xin: Người phụ nữ chủ động trong quan hệ lứa đôi. Việc "hỏi chồng" và "Cưới chồng" được thực hiện qua những thông tin ở việc trao tặng chàng trai chiếc nhẫn và chuỗi hạt cườm. Sau lễ cưới, người con gái phải ở dâu nửa tháng tại gia đình chồng để chờ lễ đón rể về nhà. Họ cư trú phía nhà gái.
Ma chay: Người Chu Ru theo tục thổ táng tại nghĩa địa chung của làng. Xưa kia, việc ma chay thường được tổ chức linh đình với lễ hiến sinh trâu bò.
Nhà mới: Việc dựng nhà mới được coi trọng với sự tập trung tâm lực của gia đình chủ và sự hỗ trợ tích cực của cộng đồng làng. Khi khánh thành nhà mới và dọn về ở nhà mới, họ hàng và cả làng quây quần giúp đỡ. Họ tổ chức tiệc mặn để cầu cúng thần linh, thụ lộc và chia vui cùng gia chủ.
Lễ tết: Một năm với chu kỳ canh tác ruộng nước, người Chu Ru có nhiều nghi lễ như: cúng thần đập nước, thần mương nước, thần lúa khi gieo hạt, ăn mừng lúa mới, cúng sau mùa thu hoạch. Ðáng lưu ý là lễ cúng thần bơnung vào tháng hai âm lịch, dân làng thường hiến sinh dê. Và lễ cúng Yang Wer, một cây đại thụ ở gần làng, được coi là nơi ngự trị của các thần linh. Người ta thường làm những hình nộm dã thú bằng gỗ hay củ chuối để đặt dưới gốc cây.
Lịch: Người Chu Ru theo lịch âm, tính tháng chu kỳ canh tác nông nghiệp của tổ tiên xưa.
Học: Trước kia, người Chu Ru không có chữ viết, mọi sự truyền đạt, thông tin đều qua truyền khẩu.
Văn nghệ: Vốn ca dao, tục ngữ rất phong phú, phản ánh việc đề cao vai trò phụ nữ, ca ngợi chế độ gia đình mẫu hệ. Về nhạc cụ, đáng lưu ý là trống, kèn và chiêng. Ngoài ra còn một số nhạc cụ khác như: r’tông, kwao, terlia là những nhạc cụ đặc sắc của người Chu Ru. Trong hội hè, nhạc cổ truyền Chu Ru thường được cất lên cùng với vũ điệu tamga nổi tiếng.
Chơi: Sở thích của trẻ em là đánh cù, chơi thả diều (diều bướm và diều sáo). Chúng cũng hay chơi trò kéo co, đi cà kheo, đuổi bắt nhau...
Theo cema.gov.vn