Chiếm hơn 8 % tổng dân số toàn tỉnh Kon Tum, người Giẻ Triêng cư trú tập trung trên địa bàn hai huyện Đăk Glei và Ngọc Hồi. Văn hoá dân tộc Giẻ Triêng thể hiện qua cách ăn, cách nói, dáng đi, cử chỉ, qua các hoạt động sản xuất, những công cụ lao động sản xuất… Với người Giẻ Triêng thì công cụ lao động sản xuất là những vật dụng không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày của họ nhưng trong đó, rìu là công cụ được "ưu ái" hơn và nổi trội hơn hẳn các loại công cụ khác về kiểu dáng cũng như hình thức trang trí.
Đây là dụng cụ được đồng bào sử dụng vào những việc chủ yếu như: chặt gỗ, đẽo cột, chặt củi, chẻ củi,…Những nguyên liệu để làm rìu đều có sẵn trong tự nhiên và gần gũi với cuộc sống của người Giẻ Triêng. Để làm ra một cái rìu phải trải quan 3 bước cơ bản: Rèn lưỡi rìu; Làm cán và Ốp lót tay.
Các hoạ tiết hoa văn được khắc trên rìu là hoa văn khắc chìm. Trong đó, chủ yếu là các loại hoa văn như: hình học, khắc vạch, sóng nước… nhìn chung ở đây được khắc họa những họa tiết hoa văn truyền thống của người Giẻ Triêng.
Màu sắc được sử dụng là màu đen được làm từ khói cây xà nu kết hợp với lá rau tàu bay. Người Giẻ Triêng thường hơ lên khói xà nu sau đó lấy lá rau tàu bay trà đi trà lại nhiều lần sẽ làm cho màu ngấm vào các đường khắc làm nổi bật lên các hoạ tiết hoa văn.
Sau khi làm xong thì ráp các bộ phận lại với nhau. Riêng phần cán được đẽo nhỏ lại để đút vừa ốp lót tay, phía cuối cán để thừa khoảng 2cm để tạo rãnh tròn và thắt đai dây mây tạo độ chắc chắn và thẩm mỹ cho cán rìu.
Một nét đẹp trong nghệ thuật trang trí cổ truyền trên cán rìu của người Giẻ Triêng cần nói tới đó là việc sử dụng những lạt mây quấn tròn để tăng độ bền chắc cho cán rìu theo kiểu bố cục dải đường diềm đơn giản. Người ta cũng không quên tạo ra một vài chấm phá những nét hoa văn nổi bằng sợi mây, guột ở điểm nhấn cần thiết trên công cụ.
Với người Giẻ - Triêng thì rìu không thể thiếu được trong cuộc sống của họ. Thường trong mỗi gia đình có từ 3-5 cái. Trong đó có loại to nhỏ khác nhau để dùng cho các thành viên trong gia đình từ bé đến lớn, từ nam đến nữ, và thường của ai thì người đó dùng.
Đặc biệt đối với nam nữ Giẻ Triêng hiện nay, rìu không chỉ là công cụ lao động hàng ngày mà nó có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc đời của họ. Đó là khi đến tuổi lập gia đình thì con gái phải chuẩn bị 100 bó củi (thường là gỗ Dẻ) để tặng cho nhà trai. Lúc này rìu là một vật dụng rất quan trọng vì nó không chỉ dùng để chặt củi mà nó còn là vật dụng đánh dấu mốc thời gian và tình cảm mà cô gái gửi gắm cho chàng trai cùng gia đình trước khi về làm vợ.
Ngược lại, với nam giới, rìu là một vật dụng để họ thể hiện vai trò của người nam giới, người đàn ông trong gia đình. Đó là việc chặt gỗ, đẽo gỗ… để làm nhà ở, nhà rông… và một số công việc khác của gia đình cũng như của làng. Không chỉ vậy, rìu còn là một tác phầm nghệ thuật mà họ gửi gắm vào đó tâm huyết và trình độ thẩm mỹ của mình. Hơn thế nữa, chiếc rìu còn là vật phẩm mà những chàng trai tặng cho người mình yêu để làm kỷ vật (thường là 2 cái) trước khi cưới cô gái về làm vợ. Điều đó khẳng định rằng: “những chiếc rìu mà chàng trai tặng cho người mình yêu là những tác phẩm văn hoá - nghệ thuật để đời” của họ.
Ngày nay, việc sử dụng rìu vẫn đang tồn tại khá phổ biến và đậm nét ở dân tộc Giẻ - Triêng. Nó không chỉ có ý nghĩa về mặt văn hóa vật chất mà có ý nghĩa rất lớn về mặt văn hóa tinh thần - văn hoá nghệ thuật.
Đây là dụng cụ được đồng bào sử dụng vào những việc chủ yếu như: chặt gỗ, đẽo cột, chặt củi, chẻ củi,…Những nguyên liệu để làm rìu đều có sẵn trong tự nhiên và gần gũi với cuộc sống của người Giẻ Triêng. Để làm ra một cái rìu phải trải quan 3 bước cơ bản: Rèn lưỡi rìu; Làm cán và Ốp lót tay.
Các hoạ tiết hoa văn được khắc trên rìu là hoa văn khắc chìm. Trong đó, chủ yếu là các loại hoa văn như: hình học, khắc vạch, sóng nước… nhìn chung ở đây được khắc họa những họa tiết hoa văn truyền thống của người Giẻ Triêng.
Màu sắc được sử dụng là màu đen được làm từ khói cây xà nu kết hợp với lá rau tàu bay. Người Giẻ Triêng thường hơ lên khói xà nu sau đó lấy lá rau tàu bay trà đi trà lại nhiều lần sẽ làm cho màu ngấm vào các đường khắc làm nổi bật lên các hoạ tiết hoa văn.
Sau khi làm xong thì ráp các bộ phận lại với nhau. Riêng phần cán được đẽo nhỏ lại để đút vừa ốp lót tay, phía cuối cán để thừa khoảng 2cm để tạo rãnh tròn và thắt đai dây mây tạo độ chắc chắn và thẩm mỹ cho cán rìu.
Một nét đẹp trong nghệ thuật trang trí cổ truyền trên cán rìu của người Giẻ Triêng cần nói tới đó là việc sử dụng những lạt mây quấn tròn để tăng độ bền chắc cho cán rìu theo kiểu bố cục dải đường diềm đơn giản. Người ta cũng không quên tạo ra một vài chấm phá những nét hoa văn nổi bằng sợi mây, guột ở điểm nhấn cần thiết trên công cụ.
Với người Giẻ - Triêng thì rìu không thể thiếu được trong cuộc sống của họ. Thường trong mỗi gia đình có từ 3-5 cái. Trong đó có loại to nhỏ khác nhau để dùng cho các thành viên trong gia đình từ bé đến lớn, từ nam đến nữ, và thường của ai thì người đó dùng.
Đặc biệt đối với nam nữ Giẻ Triêng hiện nay, rìu không chỉ là công cụ lao động hàng ngày mà nó có ý nghĩa rất quan trọng trong cuộc đời của họ. Đó là khi đến tuổi lập gia đình thì con gái phải chuẩn bị 100 bó củi (thường là gỗ Dẻ) để tặng cho nhà trai. Lúc này rìu là một vật dụng rất quan trọng vì nó không chỉ dùng để chặt củi mà nó còn là vật dụng đánh dấu mốc thời gian và tình cảm mà cô gái gửi gắm cho chàng trai cùng gia đình trước khi về làm vợ.
Ngược lại, với nam giới, rìu là một vật dụng để họ thể hiện vai trò của người nam giới, người đàn ông trong gia đình. Đó là việc chặt gỗ, đẽo gỗ… để làm nhà ở, nhà rông… và một số công việc khác của gia đình cũng như của làng. Không chỉ vậy, rìu còn là một tác phầm nghệ thuật mà họ gửi gắm vào đó tâm huyết và trình độ thẩm mỹ của mình. Hơn thế nữa, chiếc rìu còn là vật phẩm mà những chàng trai tặng cho người mình yêu để làm kỷ vật (thường là 2 cái) trước khi cưới cô gái về làm vợ. Điều đó khẳng định rằng: “những chiếc rìu mà chàng trai tặng cho người mình yêu là những tác phẩm văn hoá - nghệ thuật để đời” của họ.
Ngày nay, việc sử dụng rìu vẫn đang tồn tại khá phổ biến và đậm nét ở dân tộc Giẻ - Triêng. Nó không chỉ có ý nghĩa về mặt văn hóa vật chất mà có ý nghĩa rất lớn về mặt văn hóa tinh thần - văn hoá nghệ thuật.
Theo dantocviet.cinet.gov.vn