Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor

Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor

Nằm trong chuỗi các hoạt động Kỷ niệm 77 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tại Làng Văn hóa –Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, Sơn Tây, Hà Nội), đồng bào dân tộc Cor đến từ tỉnh Quảng Ngãi đã tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng đặc sắc.

Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 1Lễ vật cúng trong nhà trong lễ ăn trâu. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ ăn trâu của đồng bào Cor gọi là xa ố kpiêu, đây là lễ hội lớn mang đậm bản sắc văn hoá Cor được tổ chức trong nhiều ngày với các giai đoạn khác nhau.

Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 2Thầy cúng làm lễ cúng trong nhà trước khi ra lễ cây nêu. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ hội được tổ chức nhằm tạ ơn thần linh đã phù hộ cho gia đình dân làng được bình yên, no ấm và cầu mong sức khoẻ, mùa màng bội thu cho gia đình và dân làng trong năm mới. Ngoài yếu tố tâm linh, lễ ăn trâu của người Cor còn là ngày hội của cả cộng đồng.

Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 3Cột nêu được trang trí, khắc họa hoa văn công phu để làm lễ. Ảnh: Hoàng Tâm

Trong lễ hội ăn trâu dứt khoát phải có cây nêu. Cây nêu là tâm điểm của lễ hội. Trụ nêu làm bằng cây chò chỉ, khắc họa hoa văn công phu. Trước khi đi lấy cột nêu chủ lễ phải cúng cáo và rước nêu về nhà phải để trên đôi giá bắt chéo. Tuyệt đối không để cây nêu nằm trên đất và không để ai bước qua.

Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 4Thầy cúng thực hiện các nghi thức cúng nêu. Ảnh: Hoàng Tâm
Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 5Thầy cúng cầu xin thần linh che chở, phù hộ cho dân làng có cuộc sống bình yên, ấm no. Ảnh: Hoàng Tâm
Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 6Thầy cúng xin lộc thần linh để chia cho mọi người, ai cũng sẽ có cuộc sống ấm no, mùa màng tươi tốt. Ảnh: Hoàng Tâm

Lễ hội ăn trâu của người Cor có càng đông người đến thì càng vui. Lễ hội phản ánh đậm nét văn hóa cổ truyền của người Cor qua nghệ thuật diễn xướng với chiêng và nhảy múa, hát cà lu, nghệ thuật ẩm thực. Lễ thức dân gian được phô diễn, lan tỏa để củng cố mối quan hệ cộng đồng, cùng nhau giữ gìn văn hóa truyền thống và thể hiện rõ tinh thần đoàn kết của bà con buôn làng.

Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 7Mọi người cùng nhảy múa xung quanh cây nêu với cồng chiêng và những điệu múa truyền thống. Ảnh: Hoàng Tâm
Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 8Điệu múa thể hiện động tác đâm trâu. Ảnh: Hoàng Tâm
Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 9Cô gái dân tộc Cor với điệu múa truyền thống uyển chuyển. Ảnh: Hoàng Tâm

Đặc biệt, trong lễ hội ăn trâu có nghệ thuật đấu chiêng, một trong những sinh hoạt văn hóa độc đáo của đồng bào Cor.

Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 10Đấu chiêng là nét văn hóa độc đáo của đồng bào dân tộc Cor. Ảnh: Hoàng Tâm
Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 11
Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 12
Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 13
Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 14
Tái hiện nghi lễ ăn trâu và nghệ thuật đấu chiêng của đồng bào dân tộc Cor ảnh 15Tiếng trống, tiếng chiêng hoà quyện chậm rãi, sau đó tăng dần tốc độ và càng về sau càng thúc giục, dồn dập hơn là cách đồng bào dân tộc Cor bày tỏ lòng thành kính biết ơn đối với thần linh. Ảnh: Hoàng Tâm

Đồng bào sử dụng hai chiêng (gọi là chiêng chồng và chiêng vợ, được chế tác bằng đồng) và một trống (có dạng hình trụ tròn, căng mặt bằng da) để giữ nhịp và làm trọng tài cho hai chiêng đấu tài nghệ với nhau. Mỗi chiêng chỉ có 1 âm. Muốn thể hiện tiết mục đánh chiêng, múa cà đáo phải có 3 nam và 8 nữ. Nam sử dụng hai chiêng và một trống. Mở đầu tiết tấu đấu chiêng, tiếng trống và tiếng chiêng hoà quyện chậm rãi, sau đó tăng dần tốc độ và càng về sau càng thúc giục, dồn dập hơn. Người đánh chiêng luôn thể hiện rõ tài năng ứng tác của mình, biết kết hợp các thể loại nhuần nhuyễn mới tạo được âm thanh lúc trầm hùng, vui nhộn hay khoan thai...

Thông qua tiếng chiêng, cách trình diễn đấu chiêng, người Cor bày tỏ lòng thành kính biết ơn đối với thần linh, cầu nguyện cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu.

Hoàng Tâm

(DTMN)
Dân tộc Co Dân tộc Co

Tên tự gọi: Cor, Col.

Tên gọi khác: Cua, Trầu.

Dân số: 33.817 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), tương đối gần gũi các dân tộc khác trong vùng bắc Tây Nguyên và lân cận như: Hrê, Xơ Ðăng, Ba Na... Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975 trên cơ sở dùng chữ cái La-tinh. Hiện nay chữ viết này không không phổ biến nữa.

Lịch sử: Người Co cư trú rất lâu đời ở tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam.

Hoạt động sản xuất: Kinh tế rẫy là nguồn sống chủ yếu, lúa rẫy là nguồn lương thực chính. Canh tác theo hình thức phát rừng, đốt, chọc lỗ tra hạt giống, tuốt lúa bằng tay. Kỹ thuật xen canh - đa canh trên từng đám rẫy và luân canh giữa các đám rẫy. Trầu không và quế của người Co nổi tiếng lâu đời. Ðặc biệt quế quý và nhiều là một nguồn lợi lớn: quế rừng và quế trồng. Rẫy quế của mỗi gia đình là loại tài sản quan trọng, thường 10 năm trở lên mới được thu hoạch. Nhờ bán quế, các gia đình có tiền mua sắm các gia sản được ưa chuộng (cồng, chiêng, ché, trâu, v.v... và nay thì xe, đài, đồng hồ, xây nhà, đóng đồ gỗ), đồng thời cũng chi dùng vào việc ăn uống, mặc, v.v... Hình thức dùng vật đổi vật được ưa thích.

Chăn nuôi: Trâu, lợn, gà trước hết để cúng tế; chó hầu như nhà nhà đều có. Nghề dệt và rèn không phát triển. Ðồ đan đẹp và phong phú. Sản phẩm hái lượm và săn bắt có ý nghĩa không nhỏ trong đời sống người Co.

Ăn: Bữa ăn thông thường là cơm gạo tẻ, muối ớt, các loại rau rừng và thịt cá kiếm được. Trước kia, đồng bào quen ăn bốc. Ðồ uống là nước lã, rượu cần, nay nhiều người đã dùng nước chín, nước chè xanh, rượu cất. Tục ăn trầu cau chỉ được duy trì ở lớp người lớn tuổi, nhưng tục hút thuốc lá vẫn còn phổ biến.

: Người Co sống tập trung ở Trà Bồng và Trà Mi thuộc tây bắc tỉnh Quảng Ngãi và tây nam tỉnh Quảng Nam. Nhà sàn dài, cửa ra vào ở hai đầu hồi. Trong nhà chia dọc thành 3 phần: lối đi ở giữa, một bên được ngăn thành từng buồng nhỏ cho các gia đình sinh hoạt riêng, còn một bên dùng làm nơi sinh hoạt chung (tiếp khách, họp bàn, tổ chức lễ hội, ăn uống đông người, đan lát, vui chơi...). Xưa kia thường mỗi làng ở tập trung trong một vài ngôi nhà kiểu này, dài có khi hàng trăm mét, bên ngoài có rào chắn và bố trí vũ khí để phòng vệ. Gần đây, khắp vùng người Co phát triển trào lưu từng gia đình tách ra làm nhà ở riêng, nhà trệt, dựng theo kiểu nhà người Việt ở địa phương, đã có nhiều nhà lợp tôn, lợp ngói, cả nhà xây nữa.

Mặc: Ðồ mặc của người Co chủ yếu mua của người Xơ Ðăng và người Việt. Theo nếp truyền thống, nam đóng khố, ở trần, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay; mùa lạnh thì khoác tấm vải choàng. Bộ quần áo dài với khăn xếp du nhập từ đồng bằng lên từng được dùng trưng diện trong ngày lễ hội, nhất là những bô lão khá giả. Ngày nay, quần áo người Việt được dùng lan tràn, váy còn thấy một số phụ nữ mặc nhưng đều dùng vải công nghiệp. Các loại vòng trang sức cũng chỉ bắt gặp thưa thớt, đơn giản, không dễ tìm được những phụ nữ quấn nhiều chuỗi hạt cườm quanh đầu, quanh cổ tay, cổ chân, trước ngực và quanh thắt lưng như trước kia nữa.

Phương tiện vận chuyển: Người Co có các loại gùi tự đan dùng để vận chuyển rất tiện lợi, thích hợp với điều kiện đất dốc, rừng núi và suối. Mọi thứ đều bỏ trong gùi và gùi được cõng trên lưng, có 2 quai quàng qua đôi vai.

Quan hệ xã hội: Mỗi làng có ông "già làng" được mọi người kính trọng và nghe theo. Dân làng sinh sống trên một địa vực ổn định có ranh giới, việc chuyển dịch cư trú của làng cũng chỉ trong vùng lãnh thổ ấy. Trong làng thường có quan hệ thân thuộc qua lại với nhau: hoặc về huyết thống, hoặc do hôn nhân. Tuy mỗi gia đình làm ăn riêng, chiếm hữu riêng đất rẫy, nhưng tính cộng đồng làng khá cao. Xã hội truyền thống Co đã nảy sinh giàu - nghèo khác nhau, nhưng chưa phát triển các hình thức bóc lột: nô lệ gia đình, cho vay nặng lãi...

Cưới xin: Hình thức hôn nhân cư trú đằng chồng là phổ biến. Phong tục cho phép nếu vợ chết có thể lấy tiếp em hoặc chị của vợ, nhưng vợ goá không thể lấy em chồng; nếu 2 anh em trai lấy 2 chị em gái thì phải anh lấy chị, em lấy em; nếu con gái nhà này đã làm dâu nhà kia thì 2 - 3 đời sau nhà kia mới gả con gái cho nhà này. Con cô - con cậu, con gì - con già, con có chung cha mẹ đều không được lấy nhau. Cùng một gốc sinh thành, nếu là anh em trai thì đời chắt của họ hoặc sau đó nữa mới có thể lấy nhau, song nếu là chị em gái hay một gái một bên trai thì cháu hoặc chắt của họ có thể lấy nhau. Ðám cưới đơn giản, gọn nhẹ, không tốn kém nhiều, chỉ là dịp mọi người uống rượu vui chứng kiến đôi trai gái thành vợ, thành chồng.

Ma chay: Quan tài gỗ, đẽo theo kiểu độc mộc. Người chết được chôn trong bãi mộ của làng, đặt không xa chỗ ở. Tang gia "chia của" cho người mới chết, đưa ra mộ không chỉ vật dụng và tư trang của người ấy, mà cả ché, chiêng...

Thờ cúng: Những đỉnh núi cao được người Co gọi là núi Ông núi Bà. Họ cho rằng có "thần linh" trú ngụ ở đó. Hệ thống "ma" (ka muych) và "thần" (kơi, ma) rất đông: ma người chết bình thường, ma người chết bất bình thường, ma quế, ma cây đa, ma nước, thần bếp lửa... Bởi vậy, người ra có nhiều kiêng cữ và cúng quải gắn với sản xuất và đời sống.

Lễ tết: Người Co có nhiều lễ, lớn nhất là lễ có đâm trâu tế thần - đây cũng là ngày hội lớn trong làng. Ngoài ra, tết gắn với sự kết thúc một mùa lúa rẫy là dịp sinh hoạt nhộn nhịp. Trong hai dịp đó, các món ăn dân tộc, nghệ thuật dân tộc và trang phục dân tộc được thể hiện tập trung, khơi dậy văn hoá truyền thống.

Lịch: Cách tính ngày tháng tương đương với âm lịch của người Việt, nhưng chỉ có 10 tháng, tiếp đến là thời gian nghỉ ngơi sau vụ canh tác. Bên cạnh đó, người Co coi trọng việc xác định ngày tốt, xấu để thực hiện các công việc khác nhau.

Văn nghệ: Ưa thích âm nhạc, dùng bộ chiêng 3 chiếc là phổ biến: nhạc cụ còn có trống, các loại đàn nhị. Múa chỉ xuất hiện trong lễ đâm trâu. Các điệu dân ca Xru (Klu), Agiới được lưu truyền rộng rãi. Vốn truyện cổ khá phong phú, có huyền thoại, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn... Nghệ thuật trang trí tập trung nhất ở cây cột lễ và cái "gu" trong lễ hội đâm trâu.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm