Trồng lúa nước - bước tiến dài và ngoạn mục
Từ trong hang đá thâm u với cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào săn bắt, hái lượm, người Rục nay đã có những bước tiến dài, ngoạn mục khi họ đang dần làm chủ cuộc sống, biết chủ động trong trồng trọt, chăn nuôi. Người Rục biết canh tác lúa nước và đang sở hữu cánh đồng vàng Rục Làn phì nhiêu, rộng lớn đến hàng chục ngàn mét vuông giữa đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ, mỗi năm đều đặn cho hai vụ mùa bội thu...
Ơn Đảng và Nhà nước bao nhiêu, người Rục càng thấu hiểu bấy nhiêu những tấm lòng của cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Cà Xèng hàng chục năm qua bền lòng dãi nắng, dầm mưa, cùng chung tay giúp người Rục hòa nhập cộng đồng, làm quen với sản xuất, nhất là hành trình trồng cây lúa nước, xây dựng cánh đồng vàng Rục Làn.
Anh Cao Xuân Long, Bí thư bản Mò O Ồ Ồ, xã Thượng Hóa chia sẻ: “Trồng lúa nước” là cụm từ bình dị, quen thuộc đối với biết bao con người nhưng thật mới lạ với người Rục vào thời điểm cách đây khoảng hơn chục năm khi bà con mới được hướng dẫn, làm quen. Cả bản Mò O Ồ Ồ ai cũng lạ lùng, thụ động, bỡ ngỡ, dù rằng mọi công việc từ khai hoang, vỡ đất, xây dựng cánh đồng Rục Làn rộng lớn ăp ắp nước cùng với phân bón, lúa giống đã được cán bộ, chiến sĩ biên phòng chuẩn bị sẵn sàng cho bà con người Rục bắt tay vào sản xuất.
Hơn mười năm bền bỉ học trồng cây lúa nước, người Rục đã làm chủ các công đoạn sản xuất, chủ động trong hầu hết công việc mùa màng, ngoài một số việc khó như xác định lịch thời vụ, làm chủ phương tiện, máy móc cày bừa, tuốt lúa…, những công việc người Rục vẫn phải nhờ tới cán bộ, chiến sĩ biên phòng và chính quyền xã Thượng Hóa giúp đỡ.
Ông trời không phụ lòng người, người Rục liên tục được mùa lúa nước với năng suất bình quân 5 tấn/ha. Nhiều gia đình đã tích lũy được lương thực, điều mà trước đây chẳng ai dám mơ đến. Gia đình anh Cao Xuân Long, Bí thư bản Mò O Ồ Ồ cũng như nhiều gia đình khác được giao ruộng, chủ động sản xuất và liên tục có những vụ mùa bội thu, đảm bảo cuộc sống.
Ông Nguyễn Bắc Việt, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Minh Hóa cho biết: “Việc đưa cây lúa nước cánh đồng Rục Làn đến với người Rục là một cuộc cách mạng đầy khó khăn, thử thách và đáng tự hào. Có được điều này trước hết phải nói đến công lao của cán bộ, chiến sĩ biên phòng tỉnh Quảng Bình nói chung và Đồn Biên phòng Cà Xèng nói riêng đã dày công, bền bỉ góp sức giúp người Rục vươn lên xây dựng cuộc sống mới”.
Vươn lên làm chủ cuộc sống
Theo Thượng tá Nguyễn Thái Dương, Chính trị viên Đồn Biên phòng Cà Xèng: “Cùng với cây lúa nước, người Rục ở xã Thượng Hóa giờ đây còn biết chăn nuôi, trồng trọt và thu được nhiều kết quả tích cực trong công cuộc vươn lên làm chủ cuộc sống”. Từ thụ động trong sản xuất, phải chịu cảnh “đói cơm, dứt bữa”, luôn chờ đợi sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước, người Rục nay đã biết nhận đất, trồng rừng, chăn nuôi, trồng trọt, tích cực vươn lên làm chủ cuộc sống. Người Rục hiện có trên 220 ha keo, hơn 26 ha hoa màu, trên 540 con trâu bò, 226 con lợn cùng hàng trăm con gia cầm các loại…
Dẫu còn nhiều khó khăn nhưng với ý chí vươn lên trong cuộc sống, năm 2023, nhiều người Rục ở xã Thượng Hóa như gia đình chị Cao Thị Liên, anh Cao Xuân Lực ở bản Ón, anh Đinh Xuân Phúc ở bản Mò O Ồ Ồ đã chủ động viết đơn xin ra khỏi danh sách hộ nghèo. Đây là một hành động đẹp, đáng tự hào, cho thấy hành trình thay đổi nhận thức trong việc làm chủ cuộc đời của người Rục.
Về với người Rục ở xã Thượng Hóa hôm nay, không còn cảnh vất vả trèo đèo, lội suối trên con đường như sợi chỉ băng qua ba núi, bảy đèo lởm chởm đá tai mèo mà có thể tự tin đi bằng xe ô tô, thẳng tiến tới trung tâm các bản Ón, Mò O Ồ Ồ, Yên Hợp…
Trên con đường phẳng lỳ ấy, hai bên đường còn có nhiều công trình điện, đường, trường, trạm đẹp và khang trang do Đảng và Nhà nước đầu tư. Khung cảnh ấy cho thấy một tương lai tươi sáng đang rộng mở trên con đường phát triển của người Rục ở xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa hôm nay
Tên tự gọi: Chứt.
Tên gọi khác: Rục, Arem, Sách.
Nhóm địa phương: Mày, Rục, Sách, Arem, Mã Liềng.
Dân số: 6.022 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Quê hương xưa của người Chứt thuộc địa bàn cư trú của người Việt ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Vì nạn giặc giã, thuế khoá nặng nề nên họ phải chạy lên nương náu ở vùng núi, một số dần dần chuyển sâu vào vùng phía tây thuộc hai huyện Minh Hoá và Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Theo gia phả của một số dòng họ người Việt trong vùng thì các nhóm Rục, Sách cư trú tại vùng núi này ít nhất đã được trên 500 năm nay.
Hoạt động sản xuất: Người Chứt sống bằng nông nghiệp nương rẫy du canh và săn bắn hái lượm. Trừ nhóm Sách sống bằng nông nghiệp còn các nhóm khác hái lượm và săn bắn chiếm vị trí quan trọng, thậm chí là nguồn sống chính trong những năm mất mùa. Các giống cây trồng chính là ngô, sắn, đỗ, lúa.
Công cụ sản xuất gồm: rìu, rựa, gậy chọc lỗ, nơi làm ruộng có thêm cày, bừa. Từ khi định cư, người Chứt đã nuôi trâu, bò phục vụ cày bừa, làm sức kéo. Ðan lát chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng trong gia đình. Ðôi nơi họ biết thêm nghề rèn dao, rìu.
Ăn: Lương thực chủ yếu là ngô, sắn. Ngày ăn hai bữa trưa và tối. Những năm mất mùa, họ phải ăn bột báng (bột nhúc) đồ thay cơm quanh năm.
Mặc: Người Chứt không biết dệt vải, vải mặc mua hoặc trao đổi với người Việt, người Lào trong vùng giáp biên. Mùa hè, nam giới đóng khố, cởi trần. Phụ nữ mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây. Hiện nay đồng bào ăn mặc giống như người Việt.
Ở: Họ quen ở trong các túp lều dùng dây buộc, dùng cột ngoãm hay ở trong các hang đá, mái đá. Cho đến trước năm 1954 các nhóm Rục, Arem chủ yếu vẫn sống trong các hang đá, mái đá. Ngày nay, họ sống tập trung ở các bản nhỏ trong các thung lũng. Nhà cửa đã khang trang hơn trước.
Phương tiện vận chuyển: Phổ biến là gùi có dây đeo vai, vác hoặc người kéo.
Quan hệ xã hội: Người Chứt gọi làng là Cà Vên. Mỗi làng thường chỉ có dăm bảy hoặc mười gia đình của một dòng họ cư trú. Ðôi khi các gia đình trong một họ lại cư trú ở nhiều làng khác nhau. Ðứng đầu mỗi làng là Pừ Cà Vên. Ông ta giữ luôn cả vai trò tôn giáo.
Sinh hoạt tập thể, quan trọng nhất trong làng là vào những dịp lễ tết nông nghiệp. Gia đình nhỏ phụ quyền là hình thức phổ biến nhất. Mỗi gia đình chỉ gồm vợ, chồng và con cái chưa lấy vợ, chồng.
Sinh đẻ: Sắp đến ngày ở cữ, người chồng thường dựng một cái lều nhỏ cho vợ ở ngoài rừng. Thỉnh thoảng anh ta đến thăm nom, tiếp tế lương thực và đồ ăn uống cho vợ. Phụ nữ quen đẻ đứng và tự xoay sở lấy hết thảy mọi việc. Ðẻ xong, người sản phụ tự mình nhóm lửa, đốt nóng một hòn đá cuội để sẵn rồi dội nước lã vào cho bốc hơi nóng để xông khói. Sau 7 ngày, người chồng mới đến đón vợ con vào nhà.
Cưới xin: Trai gái đến tuổi trưởng thành, được tự do tìm hiểu yêu đương. Trước khi cưới, nhà trai phải chọn ông mối, đi dạm hỏi vài lần. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái, sau đó mới đón dâu. Lễ vật quan trọng nhất thiết phải có thịt khỉ sấy khô. Người Chứt không có tục ở rể.
Ma chay: Nhà giàu làm quan tài bằng thân cây khoét rỗng; nhà nghèo chỉ bó người chết bằng vỏ cây.
Thờ cúng: Tổ tiên được thờ tại nhà tộc trưởng. Khi tộc trưởng chết, việc thờ cúng chuyển sang người em trai kế. Khi nào các thế hệ trên không còn ai thì việc thờ cúng mới chuyển sang cho người ở thế hệ dưới.
Tin vào các loại ma rừng, ma suối, thổ công, ma bếp.... trong đó quan trọng nhất là ma làng.
Các nghi lễ nông nghiệp thường được thực hiện như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Văn nghệ: Người Chứt thích dùng đàn, sáo, hát các giai điệu khác nhau. Họ có nhiều truyện cổ tích, thần thoại, đặc biệt truyện kể về sự khai thiên lập địa và sinh ra con người.
Chơi: Trong các dịp lễ tết, trẻ em chơi cầu lông làm bằng lông gà, đánh găng, người lớn thổi sáo, hát hò.
Theo cema.gov.vn