Với sự quan tâm hỗ trợ về trang thiết bị, cùng việc hàng trăm học viên được truyền dạy, nghề dệt thổ cẩm của người Dao đỏ ở huyện Hoàng Su Phì (Hà Giang) đang được gìn giữ và phát triển.
Hoàng Su Phì là huyện miền núi, biên giới phía Tây của tỉnh Hà Giang có 12 dân tộc cùng sinh sống với một kho tàng văn hóa truyền thống rất phong phú và độc đáo. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, các cấp ngành và huyện Hoàng Su Phì đã luôn chú trọng bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số bằng nhiều hình thức. Qua đó, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc trên địa bàn; đồng thời, phục vụ phát triển du lịch và giúp nâng cao đời sống người dân.
Trong những năm gần đây, huyện Hoàng Su Phì được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến không chỉ bởi vẻ đẹp thiên nhiên với những thửa ruộng bậc thang hùng vĩ mà còn là vùng đất đa sắc màu dân tộc thiểu số như: Nùng, Dao, Mông…; trong đó, rất nhiều dân tộc có nghề trồng bông dệt vải, thêu thổ cẩm mang đậm bản sắc của dân tộc mình.
Chúng tôi đến với làng văn hóa du lịch thôn Nậm Hồng, xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì vào một ngày đầu Xuân. Tại nhà văn hóa cộng đồng xã, khách nơi xa đến đây, ngoài vãn cảnh còn được hòa mình vào không gian văn hóa của đồng bào dân tộc Dao, trải nghiệm những sinh hoạt dân dã, ngắm những người phụ nữ Dao đỏ đang ngồi bên khung cửi, dệt các tấm thổ cẩm mang đậm sắc màu dân tộc.
Nghề dệt thổ cẩm gắn bó với người phụ nữ Dao đỏ từ lâu đời. Nhưng trước sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp may mặc, nghề dệt thổ cẩm của đồng bào Dao đỏ ở huyện Hoàng Su Phì phần nào bị mai một.
Với mong muốn xây dựng và nhân rộng mô hình về bảo tồn nghề thêu, dệt thổ cẩm của người Dao đỏ gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, phát triển các sản phẩm phục vụ du lịch, tăng thu nhập cho người dân, cuối năm 2020, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch đã phối hợp với Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang, Ủy ban nhân dân huyện Hoàng Su Phì tổ chức xây dựng mô hình bảo tồn thêu, dệt thổ cẩm của người Dao đỏ gắn với việc phát triển các sản phẩm phục vụ du lịch; nhiều trang thiết bị, vật tư thêu, dệt được hỗ trợ.
Ông Triệu Vàn Khuân - Chủ tịch UBNĐ xã Thông Nguyên cho biết, đồng bào người dân tộc Dao chiếm 67% dân số trong xã. Do tác động của đời sống hiện đại và thói quen sinh hoạt, có một thời gian, đồng bào nơi đây chủ yếu mặc quần áo phổ thông. Vì thế, nghề thêu, dệt thổ cẩm truyền thống của người dân tộc Dao bị mai một.
“Từ khi đi được Nhà nước hỗ trợ làm nhà cộng đồng, xây dựng mô hình nghề thêu, dệt thổ cẩm của người Dao đỏ gắn với bảo tồn, phát huy sản phẩm phục vụ phát triển du lịch trong phong trào xây dựng nông thôn mới, bước đầu nghề thêu, dệt thổ cẩm của đồng bào đã được khôi phục. Đặc biệt, ngày càng nhiều người dân tộc Dao mặc trang phục của dân tộc mình, thay thế những bộ quần áo công nghiệp”, ông Khuân hồ hởi chia sẻ.
Chị Phùng Mùi Thu, ở thôn Nậm Hồng, xã Thông Nguyên cho biết, từ khi 10 tuổi, chị đã được bà và mẹ truyền dạy nghề dệt vải, thêu những bộ trang phục của dân tộc mình. Học từ những cái đơn giản nhất cho đến cái khó. Đến nay, chị đã trở thành nghệ nhân thêu, dệt thổ cẩm, truyền dạy cho thế hệ trẻ trong xã.
Trước đây, các bà, các chị trong xã chủ yếu thêu, dệt ở nhà. Từ khi có nhà văn hóa cộng đồng, những người phụ nữ trong xã tập trung ra đây để làm. Do đó, hoạt động truyền dạy nghề thêu, dệt thổ cẩm cũng thuận lợi hơn. Sản phẩm thủ công được trưng bày, giới thiệu tại nhà cộng đồng, khách đến cũng dễ thấy, dễ tìm. Tại đây, hàng trăm lượt học viên là người dân tộc Dao đỏ trên địa bàn xã Thông Nguyên được truyền dạy nghề.
Chị Lý Thị Hương, ở thôn Tân Phong, xã Hồ Thầu, huyện Hoàng Su Phì chia sẻ, từ khi Nhà nước hỗ trợ xây dựng nhà cộng đồng, trang thiết bị và mở các lớp tập huấn về thêu, dệt thổ cẩm truyền thống của dân tộc mình, các chị em rất vui, vì không những giữ gìn được nghề mà còn có thu nhập từ việc bán các sản phẩm thổ cẩm.
Trong vài năm gần đây, du lịch cộng đồng ở Hoàng Su Phì rất phát triển, nhiều du khách nước ngoài ưa thích sản phẩm thổ cẩm. Vì vậy, việc tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo trên nền bản sắc của mỗi dân tộc là rất cần thiết. Việc làm này không chỉ giúp bảo tồn nghề thêu, dệt truyền thống, trang phục của đồng bào các dân tộc thiểu số, mà còn giúp người dân có thêm thu nhập. Từ đó, họ yên tâm, gắn bó và có hướng phát triển kinh tế gắn với việc gìn giữ, trao truyền các giá trị văn hóa qua các thế hệ.
Với hướng đi mới trong công tác bảo tồn, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc ở huyện Hoàng Su Phì, không chỉ đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của đồng bào dân tộc thiểu số, tạo ra các sản phẩm đẹp có giá trị cao phục vụ khách du lịch, nâng cao đời sống tinh thần, mà còn tạo sự đoàn kết, tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp; tạo sinh kế bền vững cho người dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương.
Nguyễn Chiến
Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).
Tên gọi khác: Mán.
Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).
Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.
Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.
Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.
Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...
Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.
Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.
Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.
Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.
Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.
Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.
Ở: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.
Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.
Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.
Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.
Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.
Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.
Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.
Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.
Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.
Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.
Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.
Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.
Theo cema.gov.vn