Huyện biên giới Phong Thổ là một trong 4 huyện của tỉnh Lai Châu được thiên nhiên ưu đãi ban tặng tài nguyên chè cổ thụ quý dưới những cánh rừng già nguyên sinh. Theo khảo sát, đánh giá, toàn huyện có khoảng 8.000 cây chè cổ thụ, tập trung ở các xã Mồ Sì San, Sì Lở Lầu, Pa Vây Sử, Tung Qua Lìn, Sin Suối Hồ và Hoang Thèn. Đây là địa phương có số lượng chè cổ thụ lớn nhất tỉnh.
Từ năm 2015, một số hộ dân trên địa bàn xã Mồ Sì San đã lên rừng hái những búp chè cổ thụ tươi (giống chè shan tuyết) về sao thủ công. Đến năm 2019, khi Hợp tác xã Biên Cương thành lập - đơn vị đầu tiên ở huyện Phong Thổ thu mua, chế biến búp chè cổ thụ tươi bằng máy móc hiện đại thành những sản phẩm trà nổi tiếng thơm ngon và đem lại giá trị kinh tế cao.
Anh Tẩn Sài Phạ - Thành viên Hợp tác xã Biên Cương, xã Mồ Sì San, huyện Phong Thổ chia sẻ: Để chế biến thành sản phẩm chè khô thơm, vị đậm trải qua 5 công đoạn gồm: phơi, vò, ủ, lên lò và sấy khô. Trong các khâu, quan trọng nhất là khâu lên men, phải đủ thời gian và lên men phải chuẩn, nếu không chuẩn thì sản phẩm sẽ không đạt chất lượng. Cho nên những người làm chè thường lưu ý đến khâu này để chè đẹp, chất lượng và có giá trị kinh tế cao hơn.
Trung bình mỗi năm, hợp tác xã này thu mua từ 4-5 tấn búp chè cổ thụ tươi từ bà con trên địa bàn xã và các xã lân cận, chế biến được hơn một tấn trà khô các loại. Hiện nay, đơn vị sản xuất được 4 sản phẩm là bạch trà, hồng trà, hoàng trà và trà xanh. Trong đó có 3 sản phẩm trà cổ thụ gồm: Hồng trà shan Mồ Sì San, Hoàng trà shan Mồ Sì San và Trà xanh shan Mồ Sì San được công nhận đạt chuẩn sản phẩm OCOP 3 sao (Chương trình “mỗi xã một sản phẩm”) của tỉnh Lai Châu năm 2020. Giá bán các loại trà dao động từ 2-3 triệu đồng/kg trà khô.
Ông Tẩn Láo Lở, Phó chủ tịch UBND xã Mồ Sì San, huyện Phong Thổ cho hay: Từ khi có sản phẩm chè OCOP của xã Mồ Sì San, UBND xã đã tuyên truyền cho bà con vừa bảo vệ thu hái, vừa chăm sóc chè. Hiện nay, một số bà con không đi làm ăn xa, đến mùa đi hái chè bán cho Hợp tác xã Biên cương để chế biến thành sản phẩm. Một số hộ mỗi ngày đi hái chè, thu nhập được 200-300 nghìn đồng trở lên.
Ngoài Hợp tác xã Biên Cương, hiện nay Phong Thổ còn có Hợp tác xã Xín Chải của xã Hoang Thèn, Hợp tác xã Sì Lở Lầu cũng tích cực tham gia chuỗi sản xuất trà cổ thụ với nhiều sản phẩm như trà xanh, trà đỏ, trà hồng. Từ đó, khai thác lợi thế, tiềm năng của địa phương nhằm nâng cao thu nhập, tạo dựng thương hiệu trà cổ thụ vùng biên.
Ông Nguyễn Cảnh Đức, Phó Trưởng phòng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Phong Thổ cho biết: Với tiềm năng được thiên nhiên ban tặng, để khai thác tiềm năng và nâng cao chất lượng, sản lượng sản phẩm trà cổ thụ, phòng tiếp tục tham mưu UBND huyện Phong Thổ thực hiện Đề án phát triển và bảo vệ chè cổ thụ trên địa bàn huyện. Trong đó, trồng mới diện tích chè theo kế hoạch, bảo tồn diện tích chè hiện có trên địa bàn.
Đến thời điểm hiện tại, huyện đã trồng mới được 25ha giống cây chè cổ thụ trên địa bàn xã Hoang Thèn và tiếp tục bảo tồn 8.000 cây chè cổ thụ. Huyện cũng tuyên truyền, vận động bà con nhân dân vừa thu hoạch vừa có ý thức bảo vệ, không khai thác quá mức làm ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển cây chè.
Nhằm thúc đẩy phát triển các sản phẩm trà cổ thụ theo định hướng, mở rộng thị trường tiêu thụ hướng đến tiếp cận khách hàng quốc tế, huyện Phong Thổ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến, quảng bá, đưa các sản phẩm trà cổ thụ của địa phương tham gia các hội chợ, triển lãm, hội nghị trong và ngoài tỉnh; lên sàn thương mại điện tử. Khuyến khích Hợp tác xã mở rộng sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm; hỗ trợ hoàn thiện các tiêu chuẩn VietGAP, ISO. Cùng với đó, các xã tuyên truyền nhân dân vừa bảo vệ, chăm sóc, vừa thu hái chè gắn với bảo vệ rừng để tăng thu nhập, góp phần giảm nghèo ở địa phương.
Đồng thời, huyện tiếp tục đẩy mạnh chương trình OCOP, tạo điều kiện và khuyến khích các Hợp tác xã đưa sản phẩm trà cổ thụ của đơn vị tham gia đánh giá phân hạng sản phẩm OCOP. Mục tiêu đến năm 2024, toàn huyện sẽ có từ 6-10 sản phẩm trà cổ thụ đạt chuẩn OCOP 3 sao của tỉnh. Qua đó, góp phần khẳng định giá trị, uy tín, chất lượng sản phẩm, đáp ứng thị hiếu của khách hàng; đồng thời tạo dựng thương hiệu đặc trưng, đặc sản trà cổ thụ - báu vật của núi rừng biên cương Phong Thổ.
Việt Hoàng - Đinh Thùy
Tên tự gọi: Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).
Tên gọi khác: Mán.
Nhóm địa phương: Dao Ðỏ (Dao Cóc Ngáng, Dao sừng, Dao Dụ lạy, Dao Ðại bản), Dao Quần chẹt (Dao Sơn đầu, Dao Tam đảo, Dao Nga hoàng, Dụ Cùn), Dao Lô gang (Dao Thanh phán, Dao Cóc Mùn), Dao Tiền (Dao Ðeo tiền, Dao Tiểu bản), Dao Quần trắng (Dao Họ), Dao Thanh Y, Dao Làn Tẻn (Dao Tuyển, Dao áo dài).
Dân số: 751.067 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.
Lịch sử: Người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở người Dao.
Hoạt động sản xuất: Nương, thổ canh hốc đá, ruộng là những hình thức canh tác phổ biến ở người Dao. Tuỳ từng nhóm, từng vùng mà hình thức canh tác này hay khác nổi trội lên như: Người Dao Quần Trắng, Dao áo Dài, Dao Thanh Y chuyên làm ruộng nước. Người Dao Ðỏ - thổ canh hốc đá. Phần lớn các nhóm Dao khác làm nương du canh hay định canh. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và vùng cao còn nuôi ngựa, dê.
Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến ở các nhóm Dao. Họ ưa dùng vải nhuộm chàm.
Hầu hết các xóm đều có lò rèn để sửa chữa nông cụ. Nhiều nơi còn làm súng hoả mai, súng kíp, đúc những hạt đạn bằng gang. Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu làm những đồ trang sức như vòng cổ, vòng chân, vòng tay, vòng tai, nhẫn, dây bạc, hộp đựng trầu...
Nhóm Dao Ðỏ và Dao Tiền có nghề làm giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay dầu ăn, nghề làm đường mật.
Ăn: Người Dao thường ăn hai bữa chính trong ngày, bữa trưa và bữa tối. Chỉ những ngày mùa bận rộn mới ăn thêm bữa sáng. Người Dao ăn cơm là chính, ở một số nơi lại ăn ngô nhiều hơn ăn cơm hoặc ăn cháo. Cối xay lúa thường dùng là loại cối gỗ đóng dăm tre. Cối giã có nhiều loại như cối gỗ hình trụ, cối máng giã bằng chày tay, cối đạp chân, cối giã bằng sức nước. Họ thích ăn thịt luộc, các món thịt sấy khô, ướp chua, canh măng chua. Khi ăn xong, người ra kiêng để đũa ngang miệng bát vì đó là dấu hiệu trong nhà có người chết.
Phổ biến là rượu cất, ở một vài nơi lại uống hoãng, thứ rượu không qua trưng cất, có vị chua và ít cay.
Người Dao thường hút thuốc lá và thuốc lào bằng điếu cầy hay tẩu.
Mặc: Trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy hoặc để chỏm tóc dài trên đỉnh đầu, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao thường có cách đội khăn khác nhau. áo có hai loại, áo dài và áo ngắn.
Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài yếm, váy hoặc quần. Y phục theo rất sặc sỡ. Họ không theo theo mẫu vẽ sẵn trên vải mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình mẫu nổi lên mặt phải. Nhiều loại hoa văn như chữ vạn, cây thông, hình chim, người, động vật, lá cây. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong ở người Dao rất độc đáo. Muốn hình gì người ta dùng bút vẽ hay nhúng khuôn in vào sáp ong nóng chẩy rồi in lên vải. Vải sau khi nhuộm chàm sẽ hiện lên hoa văn mầu xanh lơ do phủ lớp sáp ong không bị thấm chàm.
Ở: Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi miền Bắc. Tuy nhiên một số nhóm như Dao Quần trắng ở thung lũng, còn Dao Ðỏ lại ở trên núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác, năm bẩy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau, tuỳ nơi họ ở nhà trệt, nhà sàn hay nhà nửa sàn, nửa đất.
Phương tiện vận chuyển: Người Dao ở vùng cao quen dùng địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi dậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được họ ưa dùng.
Quan hệ xã hội: Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu các quan hệ xóm giềng và quan hệ dòng họ.
Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là các họ Bàn, Ðặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ thường có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người thuộc các thế hệ khác nhau.
Sinh đẻ: Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay cài hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được ba ngày thì làm lễ cúng mụ.
Cưới xin: Trai gái muốn lấy được nhau phải so tuổi, bói chân gà xem có hợp nhau không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái trước khi vào nhà, hát trong đám cưới. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng ra khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.
Ma chay: Thày tào có vị trí quan trọng trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cái đến nhà thầy mời về chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm liệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được liệm vào quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá ở chân mộ. ở một số nơi có tục hoả táng cho những người chết từ 12 tuổi trở lên.
Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình. Lễ tổ chức ba ngày, ngày đầu gọi là lễ phá ngục, giải thoát hồn cho người chết, ngày thứ hai gọi là lễ tắm hương hoa cho người chết trước khi đưa hồn về bàn thờ tổ tiên trong nhà, ngày thứ ba lễ cấp sắc. Người chết được cúng đưa hồn về quê cũ ở Dương Châu.
Nhà mới: Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng. Buổi tối, người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hỗ, các hạt gạo vẫn giữa nguyên vị trí là có thể làm nhà được.
Thờ cúng: Người Dao vừa tin theo các tín ngưỡng nguyên thuỷ, các nghi lễ nông nghiệp vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc của Khổng giáo, Phật giáo và nhất là Ðạo giáo. Bàn vương được coi là thuỷ tổ của người Dao nên được cúng chung với tổ tiên từng gia đình. Theo truyền thống tất cả đàn ông đã đến tuổi trưởng thành đều phải qua lễ cấp sắc. một nghi lễ vừa mang tính chất của Ðạo giáo, vừa mang những vết của lễ thành đinh xa xưa.
Lịch: Người Dao quen dùng âm lịch để tính thời gian sản xuất và sinh hoạt.
Học: Hầu hết các xóm thôn người Dao đều có người biết chữ Hán, nôm Dao. Người ta học chữ để đọc sách cúng, sách truyện, thơ.
Văn nghệ: Người Dao có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú, nhiều truyện cổ, bài hát, thơ ca. Ðặc biệt truyện Quả bầu với nạn hồng thuỷ, Sự tích Bàn Vương rất phổ biến trong người Dao. Múa, nhạc được họ sử dụng chủ yếu trong các nghi lễ tôn giáo.
Chơi: Người Dao thích chơi đu, chơi quay, đi cà kheo.
Theo cema.gov.vn