Lên Bắc Hà khám phá chè Shan Tuyết cổ thụ

Lên Bắc Hà khám phá chè Shan Tuyết cổ thụ

Vốn nổi tiếng là vùng trồng mận tam hoa của tỉnh Lào Cai, giờ đây Bắc Hà có thêm đặc sản trứ danh nữa là chè hữu cơ khai thác từ rừng chè cổ thụ phân tán rải rác ở nhiều xã, nhưng tập trung nhất ở 3 xã Hoàng Thu Phố, Bản Liền, Tả Củ Tỷ, tuổi chè từ 100-200 năm.

Nằm ở độ cao trên 1.800m so với mực nước biển, khí hậu ở xã Hoàng Thu Phố gần giống với Sa Pa, thời tiết quanh năm mát mẻ, những ngày mưa lạnh, sương mù dày đặc chẳng rõ mặt người. Bởi chất đất, khí hậu phù hợp, những cây chè tuyết Shan cổ thụ ở đây có vỏ xù xì, đường kính lớn, rêu phong tạo thành quần thể chè Shan tuyết cổ thụ hàng trăm tuổi.

Cây chè Shan thân gỗ, cao 6-10m, cành thưa, lá to dài, nhiều răng cưa sâu đều, đầu lá nhọn, búp to, có nhiều long tơ trắng mịn như tuyết nên được gọi là chè Shan tuyết.

1.JPG

Tháng 9/2023, quần thể 105 cây chè Shan tuyết cổ thụ tại thôn Chồ Chải, xã Hoàng Thu Phố, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai được công nhận là Cây Di sản Việt Nam

2.JPG

Những gốc chè cổ thụ đã sống qua nhiều thế hệ, được đồng bào dân tộc Mông nơi đây bảo vệ, giữ gìn như báu vật

3.JPG

Cùng với việc cải tạo những gốc chè cổ thụ, chính quyền xã còn hỗ trợ, vận động bà con mở rộng nhân giống trồng chè Shan tuyết, tạo nguồn thu ổn định, cải thiện đời sống.

5.JPG

Cây chè có tuổi đời hơn 100 năm ở thôn Chồ Chải xã Hoàng Thu Phố

7.JPG

Là giống chè mọc tự nhiên, được chăm sóc hoàn toàn hữu cơ, chè Shan tuyết đã và đang trở thành đặc sản mang lại nguồn thu cho nhiều hộ dân tại địa phương nên bà con luôn ý thức việc thu hái và chăm sóc đúng cách, không được chặt bỏ hoặc tác động làm ảnh hưởng đến diện tích vùng chè.

9.JPG

Những cô gái dân tộc Mông nơi đây đang “chinh phục” những cây chè cổ thụ để thu hái búp tươi.

11.JPG

Xã Hoàng Thu Phố hiện còn giữ được gần 10 ha chè Shan tuyết cổ thụ, với vài nghìn cây, phân bố rải rác ở các thôn: Sỉn Chồ 1, 2; Hóa Séo Chải; Bản Pấy 1; Hoàng Hạ 1, 2.

12.JPG

Những gốc to hơn vòng tay người ôm trông giống như rừng gỗ lớn, búp lá xanh mơn mởn

15.JPG

Với việc được công nhận là cây Di sản Việt Nam, Quần thể 105 cây chè Shan tuyết tại thôn Chồ Chải, xã Hoàng Thu Phố góp phần giữ gìn và phát huy gắn với phát du lịch vùng Cao Hoàng Thu Phố nói riêng và miền Cao nguyên trắng Bắc Hà

Tháng 9/2023, quần thể 105 cây chè Shan tuyết cổ thụ tại thôn Chồ Chải, xã Hoàng Thu Phố được công nhận là Cây Di sản Việt Nam.

Xã Hoàng Thu Phố hiện có gần 10ha chè Shan tuyết cổ thụ với gần 2.400 cây, phân tán chủ yếu ở các thôn Sỉn Chồ 1, Sỉn Chồ 2 và còn có ở các thôn Hóa Séo Chải, Bản Pấy 1, Hoàng Hạ 1, Hoàng Hạ 2. Những gốc chè cổ thụ đã sống qua nhiều thế hệ, được đồng bào dân tộc Mông bảo vệ, giữ gìn như báu vật.

Người dân ở Hoàng Thu Phố không rõ cây chè Shan tuyết có từ bao giờ, họ chỉ biết từ khi còn nhỏ đã được nghe kể lại “sự tích” về cây chè Shan. Trong đó có chuyện người dân nơi đây phát hiện ra búp chè non là phương thuốc quý, xua tan mệt mỏi sau những giờ lao động vất vả.

Sau này, nhận thấy cây chè Shan tuyết không chỉ có giá trị kinh tế cao, mà còn có giá trị về văn hóa, du lịch, người dân và chính quyền xã Hoàng Thu Phố đã có nhiều biện pháp để bảo tồn chè cổ thụ. Cùng với việc cải tạo những gốc chè cổ thụ, chính quyền xã còn hỗ trợ, vận động bà con mở rộng nhân giống trồng chè Shan tuyết, tạo nguồn thu ổn định, cải thiện đời sống.

Hoàng Thu Phố có nguồn thu khá ổn định từ lá chè mang lại, góp phần nâng cao đời sống cho người dân nơi đây. Cùng với xu hướng trở về với thiên nhiên, phát triển bển vững, rừng chè cổ thụ này giờ đây đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng của du khách trong và ngoài nước khi khám phá Bắc Hà, Lào Cai.

Do chất đất, khí hậu ưu ái cây chè và người dân nơi đây nên chè Shan tuyết ở Hoàng Thu Phố rất đặc biệt, nước pha có màu xanh đậm thơm ngọt.

Bài và ảnh: An Thành Đạt

(̣Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Mông Dân tộc Mông

Tên tự gọi: Mông, Na Miẻo.

Tên gọi khác: Mẹo, Mèo, Miếu Hạ, Mán Trắng.

Nhóm địa phương: Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Xanh, Na Miẻo.

Dân số: 1.068.189 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc ngôn ngữ hệ Mông - Dao.

Hoạt động sản xuất: Nguồn sống chính là làm nương định canh hoặc nương du canh trồng ngô, lúa, lúa mạch. Nông dân có truyền thống trồng xen canh trên nương cùng với cây trồng chính là các cây ý dĩ, khoai, rau, lạc, vừng, đậu...

Chiếc cày của người Mông rất nổi tiếng về độ bền cũng như tính hiệu quả. Trồng lanh, thuốc phiện (trước đây), các cây ăn quả như táo, lê, đào, mận, dệt vải lanh là những hoạt động sản xuất đặc sắc của người Mông.

Người Mông chăn nuôi chủ yếu trâu, bò, lợn, gà, ngựa. Ngựa thồ là phương tiện vận chuyển rất có hiệu quả trên vùng cao núi đá. Con ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình Mông.

Họ phát triển đa dạng các nghề thủ công như đan lát, rèn, làm yên cương ngựa, đồ gỗ, nhất là các đồ đựng, làm giấy bản, đồ trang sức bằng bạc phục vụ nhu cầu và thị hiếu của người dân. Các thợ thủ công Mông phần lớn là thợ bán chuyên nghiệp làm ra những sản phẩm nổi tiếng như lưỡi cày, nòng súng, các đồ đựng bằng gỗ ghép. Chợ ở vùng Mông thoả mãn vừa nhu cầu trao đổi hàng hoá vừa nhu cầu giao lưu tình cảm, sinh hoạt.

Ăn: Người Mông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ.

Người Mông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.

Mặc: Trang phục của người Mông rất sặc sỡ, đa dạng giữa các nhóm.

Phụ nữ Mông Trắng trồng lanh, dệt vải lanh, váy màu trắng, áo xẻ ngực, thêu hoa văn ở cánh tay, yếm sau. Cạo tóc, để chỏm, đội khăn rộng vành.

Phụ nữ Mông Hoa mặc váy màu chàm có thêu hoặc in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ nách, trên vai và ngực đắp vải màu và thêu. Ðể tóc dài, vấn tóc cùng tóc giả.

Phụ nữ Mông Ðen mặc váy bằng vải chàm, in hoa văn bằng sáp ong, áo xẻ ngực.

Phụ nữ Mông Xanh mặc váy ống. Phụ nữ Mông Xanh đã có chồng cuốn tóc lên đỉnh đầu, cài bằng lược móng ngựa, đội khăn ra ngoài tạo thành hình như hai cái sừng.Trang trí trên y phục chủ yếu bằng đắp ghép vải màu, hoa văn thêu chủ yếu hình con ốc, hình vuông, hình quả trám, hình chữ thập.

Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt.jpg
Tuổi thơ hồn nhiên của trẻ em dân tộc Mông ở xã Vân Hồ, huyện Mộc Châu (Sơn La). Ảnh Lưu Trọng Đạt

: Người Mông quần tụ trong từng bản vài chục nóc nhà. Nhà trệt, ba gian hai chái, có từ hai đến ba cửa. Gian giữa đặt bàn thờ.

Nhà giàu thì tường trình, cột gỗ kê trên đá tảng hình đèn lồng hay quả bí, mái lợp ngói, sàn gác lát ván. Phổ biến nhà bưng ván hay vách nứa, mái tranh.

Lương thực được cất trữ trên sàn gác. Một số nơi có nhà kho chứa lương thực ở ngay cạnh nhà.

Chuồng gia súc được lát ván cao ráo, sạch sẽ.

Ở vùng cao núi đá, mỗi nhà có một khuôn viên riêng cách nhau bằng bức tường xếp đá cao khoảng gần 2 mét.

Phương tiện vận chuyển: Người Mông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai.

Quan hệ xã hội: Bản thường có nhiều họ, trong đó một hoặc hai họ giữ vị trí chủ đạo, có ảnh hưởng chính tới các quan hệ trong bản. Người đứng đầu bản điều chỉnh các quan hệ trong bản, trước kia, cả bằng hình thức phạt vạ lẫn dư luận xã hội. Dân mỗi bản tự nguyện cam kết và tuân thủ quy ước chung của bản về sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ rừng và việc giúp đỡ lẫn nhau. Quan hệ trong bản càng gắn bó chặt chẽ hơn thông qua việc thờ cúng chung thổ thần của bản.

Người Mông rất coi trọng dòng họ bao gồm những người có chung tổ tiên. Các đặc trưng riêng với mỗi họ thể hiện ở những nghi lễ cúng tổ tiên, ma cửa, ma mụ... như số lượng và cách bày bát cúng, bài cúng, nơi cúng, ở các nghi lễ ma chay như cách quàn người chết trong nhà, cách để xác ngoài trời trước khi chôn, cách bố trí mộ...

Người cùng họ dù không biết nhau, dù cách xa bao đời nhưng qua cách trao đổi các đặc trưng trên có thể nhận ra họ của mình. Phong tục cấm ngặt những người cùng họ lấy nhau. Tình cảm gắn bó giữa những người trong họ sâu sắc. Trưởng họ là người có uy tín, được dòng họ tôn trọng, tin nghe.

Gia đình nhỏ, phụ hệ. Cô dâu đã qua lễ nhập môn, bước qua cửa nhà trai, coi như đã thuộc vào dòng họ của chồng. Vợ chồng rất gắn bó, luôn ở bên nhau khi đi chợ, đi nương, thăm hỏi họ hàng. Phổ biến tục cướp vợ.

Thờ cúng: Trong nhà có nhiều nơi linh thiêng dành riêng cho việc thờ cúng như nơi thờ tổ tiên, ma nhà, ma cửa, ma bếp. Những người biết nghề thuốc, biết làm thầy còn lập bàn thờ cúng những vị tổ sư nghề của mình. Nhiều lễ cúng kiêng cấm người lạ vào nhà, vào bản. Sau khi cúng ma cầu xin ai thường đeo bùa để lấy khước.

Học: Chữ Mông tuy được soạn thảo theo bộ vần chữ quốc ngữ từ những năm sáu mươi nhưng cho đến nay vẫn chưa thực sự phổ biến.

Lễ tết: Trong khi người Việt đang hối hả kết thúc tháng cuối cùng trong năm thì người Mông đã bước vào Tết năm mới truyền thống từ đầu tháng 12 âm lịch, sớm hơn tết Nguyên đán một tháng theo cách tính lịch cổ truyền của người Mông, phù hợp với nông lịch truyền thống.

Ngày Tết, dân làng thường chơi còn, đu, thổi khèn, ca hát ở những bãi rộng quanh làng. Tết lớn thứ hai là Tết 5 tháng năm (âm lịch). Ngoài hai tết chính, tuỳ từng nơi còn có các Tết vào các ngày 3 tháng 3, 13 tháng 6, 7 tháng 7 (âm lịch).

Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung.jpg
Các vận động viên dân tộc Mông thi đấu môn bắn nỏ tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao các dân tộc huyện Than Uyên (Lai Châu). Ảnh Quý Trung

Văn nghệ: Thanh niên thích chơi khèn, vừa thổi vừa múa. Khèn, trống còn được sử dụng trong đám ma, lúc viếng, trong các lễ cúng cơm. Kèn lá, đàn môi là phương tiện để thanh niên trao đổi tâm tình.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm