Chuyển đổi mô hình sản xuất giúp đời sống đồng bào Khmer ở Vĩnh Thuận khởi sắc

Mô hình trồng rau màu đã góp phần giảm nghèo, cải thiện đời sống cho đồng bào Khmer ở ấp Đồng Tranh, xã Vĩnh Bình Bắc, huyện Vĩnh Thuận (Kiên Giang).
Mô hình trồng rau màu đã góp phần giảm nghèo, cải thiện đời sống cho đồng bào Khmer ở ấp Đồng Tranh, xã Vĩnh Bình Bắc, huyện Vĩnh Thuận (Kiên Giang).

Vĩnh Thuận là huyện vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng thuộc vùng U Minh Thượng (Kiên Giang), có địa giới hành chính tiếp giáp với các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu và Hậu Giang, dân số gần 24.000 hộ với hơn 94.000 người. Trong đó, có hơn 1.900 hộ đồng bào dân tộc Khmer (chiếm trên 8% dân số) sống đan xen với người Kinh, tập trung đông nhất xã Vĩnh Bình Bắc, Phong Đông và Tân Thuận, chủ yếu sản xuất nông nghiệp và nuôi thủy sản.

Chuyển đổi mô hình sản xuất giúp đời sống đồng bào Khmer ở Vĩnh Thuận khởi sắc ảnh 1Toàn cảnh thị trấn Vĩnh Thuận (huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang) nhìn từ trên cao

Theo ông Huỳnh Tấn Phi, Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Thuận, qua thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới (NTM) trong giai đoạn 2016-2020, đã xuất hiện nhiều mô hình mới trong sản xuất nông nghiệp ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, như mô hình nuôi tôm càng xanh, tôm - cua kết hợp, đặc biệt là mô hình tôm - lúa mang lại hiệu quả kinh tế cao, ổn định, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Chuyển đổi mô hình sản xuất giúp đời sống đồng bào Khmer ở Vĩnh Thuận khởi sắc ảnh 2Tuyến giao thông liên xã hướng về xã Phong Đông (Vĩnh Thuận, Kiên Giang) được nhựa hoá, đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hoá của người dân trong vùng

Qua chuyển đổi thực hiện mô hình tôm - lúa đã cho thấy hiệu quả tích cực, hạn chế rủi ro, cải thiện được môi trường canh tác, phát triển bền vững... Qua đó, xuất hiện nhiều nhân tố điển hình, nhiều mô hình tiêu biểu trong đồng bào dân tộc Khmer với thu nhập mỗi năm hàng trăm triệu đồng như hộ ông Danh Thanh ở ấp Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc), ông Danh Lâu ở ấp Kinh 2 (xã Tân Thuận), ông Danh Sơn Hà ở ấp Bời Lời B (xã Bình Minh)...

Chuyển đổi mô hình sản xuất giúp đời sống đồng bào Khmer ở Vĩnh Thuận khởi sắc ảnh 3Chùa Đồng Tranh (xã Vĩnh Bình Bắc (Vĩnh Thuận, Kiên Giang) thể hiện nét kiến trúc, văn hoá đặc trưng của đồng bào Khmer Nam Bộ

Nét mới trong đời sống của đồng bào Khmer gắn chuyển đổi sản xuất thể hiện khá rõ ở xã Phong Đông, địa bàn có đông đồng bào DTTS của huyện Vĩnh Thuận với trên 29% dân số là đồng bào Khmer.

Chuyển đổi mô hình sản xuất giúp đời sống đồng bào Khmer ở Vĩnh Thuận khởi sắc ảnh 4Lớp đào tạo nghề cho lao động dân tộc Khmer tại ấp Cái Nhum, xã Phong Đông (Vĩnh Thuận, Kiên Giang) góp phần đào tạo nghề, tăng cơ hội có việc làm, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn lúc nông nhàn

Ông Thái Thanh Phong, Chủ tịch UBND xã Phong Đông cho biết: Bằng những bước đi cụ thể trong chuyển đổi sản xuất với trọng tâm là thực hiện chuyển đổi trên 2.000 ha đất trồng lúa sang mô hình tôm - lúa trong các nông hộ đồng bào dân tộc Khmer trên địa bàn, cuộc sống người dân nơi đây từng bước đổi thay, ngày một khởi sắc.

Tính đến đầu năm 2020, thu nhập bình quân đầu người của người dân xã Phong Đông tăng lên hơn gấp đôi so với cách đây 5 năm, lên đến hơn 45 triệu đồng/người/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm chỉ còn hơn 3%.

Chuyển đổi mô hình sản xuất giúp đời sống đồng bào Khmer ở Vĩnh Thuận khởi sắc ảnh 5Nghề đan giỏ lục bình góp phần giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững vùng đồng bào dân tộc Khmer ở xã Phong Đông (Vĩnh Thuận, Kiên Giang)

Ông Huỳnh Tấn Phi, Chủ tịch UBND huyện Vĩnh Thuận, cho biết: Từ hiệu quả của mô hình tôm - lúa và phong trào chuyển đổi sản xuất, đời sống nhiều hộ dân trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ở xã Phong Đông nói riêng, huyện Vĩnh Thuận nói chung từng bước được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người không ngừng nâng lên; đặc biệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm qua từng năm, từ hơn 270 hộ vào năm 2014, giảm xuống còn gần 150 hộ đầu năm 2020, góp phần thực hiện thắng lợi chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM, giúp diện mạo nông thôn vùng đồng bào DTTS ngày một khởi sắc, khang trang hơn.

Chuyển đổi mô hình sản xuất giúp đời sống đồng bào Khmer ở Vĩnh Thuận khởi sắc ảnh 6Mô hình trồng rau màu đã góp phần giảm nghèo, cải thiện đời sống cho đồng bào Khmer ở ấp Đồng Tranh, xã Vĩnh Bình Bắc, huyện Vĩnh Thuận (Kiên Giang).
Chuyển đổi mô hình sản xuất giúp đời sống đồng bào Khmer ở Vĩnh Thuận khởi sắc ảnh 7Thực hiện chủ trương chuyển đổi của địa phương, nhiều hộ nông dân Khmer ở xã Phong Đông chuyển sang canh tác theo hình sản xuất bền vững như tôm - lúa, tôm - cua, có nguồn thu nhập ổn định, từng bước vươn lên thoát nghèo, làm giàu trên đồng đất quê hương Vĩnh Thuận anh hùng. Ảnh: Lê Sen

Bên cạnh những thành quả từ xây dựng NTM với hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được quan tâm đầu tư khá đồng bộ, các chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, điện, nước sinh hoạt, vốn vay ưu đãi cho đồng bào Khmer trên địa bàn huyện Vĩnh Thuận anh hùng đã và đang phát huy hiệu quả…/.

Lê Sen-Phúc Thanh

(Báo ảnh DT&MN/TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm