Họ là những Đảng viên phụ trách ở các ấp trên địa bàn huyện vùng sâu, vùng kháng chiến của huyện Vĩnh Thuận (Kiên Giang), đã có nhiều cống hiến cho quê hương, nhưng khi về già, do hoàn cảnh khó khăn nên chưa có một căn nhà kiên cố để ở. Được Huyện ủy Vĩnh Thuận hỗ trợ xây nhà, ai nấy đều rất vui mừng, phấn khởi.
Ông Nguyễn Văn Thoàn, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Vĩnh Thuận cho biết, sau khi vận động được số tiền 500 triệu đồng từ Công ty Xổ số kiến thiết Thành phố Hồ Chí Minh, huyện dự kiến sẽ tiếp tục xây hoặc sửa chữa nhà cho các hộ thuộc diện gia đình chính sách. Tuy nhiên, sau khi rà soát, nhận thấy các hộ gia đình chính sách ở huyện trong những năm qua đã được Đảng, Nhà nước quan tâm hỗ trợ nên đã cơ bản không còn khó khăn về nhà ở, do vậy Ban Thường vụ Huyện ủy đã thống nhất chọn những đảng viên từng tham gia công tác ở các ấp, nhưng đã nghỉ và đang gặp khó khăn về nhà ở; những đảng viên ở các ấp hưởng chế độ một lần với số tiền ít ỏi (khoảng hơn 16 triệu đồng/trường hợp) mà không có lương hưu, đang khó khăn về nhà ở... để hỗ trợ làm nhà.
Sau khi thống nhất, Ban Thường vụ Huyện ủy Vĩnh Thuận đã chỉ đạo các địa phương rà soát, tìm những đảng viên thực sự khó khăn về nhà ở để hỗ trợ mỗi hộ số tiền 50 triệu đồng, giúp họ xây dựng một căn nhà kiên cố để an hưởng tuổi già.
Ông Ngô Văn Ba, 71 tuổi, thường được bà con trong xóm gọi là ông Ba Chích, trú tại ấp Đập Đá 2, xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận là một trong những trường hợp được huyện hỗ trợ tiền làm nhà trong đợt này.
Ông Ngô Văn Ba tham gia cách mạng từ năm 1973. Sau giải phóng, ông về địa phương làm Trưởng ấp, rồi ra xã Vĩnh Phong làm Xã đội trưởng. Đến năm 1979, ông được kết nạp vào Đảng, sau đó về lại ấp Đập Đá 2 làm Bí thư Chi bộ cho đến lúc nghỉ chế độ.
Theo ông Lê Văn Hội, Bí thư Chi bộ - Trưởng ấp Đập Đá 2, ông Ba là người rất có uy tín ở địa phương. Khi ông làm Bí thư Chi bộ ấp, mỗi khi người dân trong ấp có chuyện xích mích hay kiện tụng, ông đều đứng ra hòa giải và xử lý mọi việc êm đẹp, ít khi để xảy ra vụ việc vượt cấp lên tuyến trên.
Tuy nhiên, hoàn cảnh của gia đình ông Ba rất khó khăn. Trước đây gia đình ông Ba là một trong nhưng hộ khá giả trong vùng Đập Đá, nhưng vì ông có một người con gái bị bệnh tâm thần, gia đình thường xuyên phải đưa con gái vào điều trị ở bệnh viện nên tài sản trong nhà cứ dần "đội nón" ra đi, cuộc sống ngày càng khó khăn.
Trong căn nhà rộng trên 40 m2, vừa mới được xây dựng khang trang, ông Ngô Văn Ba xúc động chia sẻ, nếu không có Đảng, Nhà nước, cụ thể là Đảng bộ, chính quyền huyện Vĩnh Thuận quan tâm giúp đỡ, không biết đến bao giờ gia đình ông mới có được căn nhà mới khang trang như hiện giờ để ở.
Đảng viên dân tộc Khmer Danh Xem (54 tuổi), ở ấp Kinh 1A, xã Tân Thuận, nguyên là Phó Trưởng ấp Kinh 1A cũng là đảng viên có hoàn cảnh khó khăn được hỗ trợ đợt này. Trước đây, ông Danh Xem là người tích cực tham gia công tác tại địa phương. Năm 2019, ông được giải quyết nghỉ chế độ một lần với số tiền 16,5 triệu đồng.
Gia đình ông không có ruộng đất, vợ ông phải đi làm thuê ở Thành phố Hồ Chí Minh. Căn nhà ở trước đây gia đình ông Danh Xem ở là nhà 167 (Chương trình chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở của Chính phủ Việt Nam) đã xuống cấp, nên khi được hỗ trợ tiền để xây nhà mới, ông Danh Xem mừng lắm.
Ông Lê Minh Trung, Bí thư Đảng ủy xã Tân Thuận cho biết, các cấp lãnh đạo đã quan tâm, giúp đỡ những đảng viên có hoàn cảnh khó khăn có được căn nhà mới như thế này là động lực để các đảng viên vươn lên trong cuộc sống, có tinh thần lao động để phát triển kinh tế gia đình, góp phần cùng địa phương trong công tác xóa đói giảm nghèo, nhất là với người dân tộc Khmer sinh sống trên địa bàn.
Đến thăm gia đình đảng viên Nguyễn Văn Thu (68 tuổi), ở ấp Kinh 11, xã Vĩnh Thuận ai cũng xúc động. Ông Thu trước đây làm Chủ tịch Hội Nông dân xã Vĩnh Thuận, sau về làm Bí thư ấp Kinh 11. Cách đây gần 13 năm, ông Thu bị tai biến, không đi lại được, không nói được, mọi sinh hoạt cá nhân đều nhờ vợ ông chăm sóc.
Hôm đoàn lãnh đạo của huyện và xã xuống trao quyết định tặng căn nhà, ông Thu xúc động lắm, dù không nói được thành lời, nhưng mắt ông cứ rơm rớm, khiến các thành viên trong đoàn ai cũng nghẹn ngào, xúc động.
Theo ông Phan Minh Thương, Bí thư Chi bộ - Trưởng ấp Kinh 11, gia đình ông Thu trước đây cũng đủ ăn, đủ mặc và rất có uy tín ở địa phương. Thế nhưng từ khi ông bị tai biến, tiền thuốc thang chữa trị nhiều nên gia đình rất khó khăn. Nhờ có nguồn quỹ hỗ trợ xây nhà cho đảng viên nghèo, gia đình ông Thu mới có được một căn nhà khang trang như hiện nay để ở.
Theo ông Nguyễn Văn Thoàn, Phó Bí thư Thường trực huyện Vĩnh Thuận, mô hình hỗ trợ xây nhà cho đảng viên nghèo, khó khăn về nhà ở được huyện thực hiện mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Bởi những đảng viên được hỗ trợ là những người đã có nhiều cống hiến cho quê hương, nhưng mỗi người đều có hoàn cảnh khó khăn, nếu không kịp thời hỗ trợ, thì chưa biết đến bao giờ họ mới có căn nhà kiên cố để ở.
Ông Nguyễn Văn Thoàn cho biết, sau khi thực hiện đợt hỗ trợ lần này, huyện Vĩnh Thuận sẽ rà soát lại toàn bộ những đảng viên đang khó khăn về nhà ở và có chính sách hỗ trợ để giúp các đảng viên khó khăn, đặc biệt là những đảng viên cao tuổi đảng có được căn nhà kiên cố để an hưởng tuổi già./.
Lê Sen
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn