Tỉnh Vĩnh Long có hơn 22.630 người dân tộc Khmer sinh sống, tập trung chủ yếu ở các xã, thị trấn thuộc huyện Trà Ôn, Tam Bình, Vũng Liêm và thị xã Bình Minh. Những ngày cận Tết Chôl Chnăm Thmây, đồng bào Khmer trong tỉnh phấn khởi tham gia các hoạt động Tết quân dân gắn với Ngày hội Văn hóa - Thể thao đồng bào Khmer.

Các hoạt động thiết thực đã tạo không khí vui tươi, phấn khởi, đậm đà bản sắc dân tộc cho đồng bào Khmer trong dịp Tết cổ truyền, đồng thời thắt chặt mối quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt giữa quân và dân.
Chăm lo an sinh, cùng đồng bào Khmer đón Tết
Tết quân dân gắn với Ngày hội Văn hóa - Thể thao đồng bào Khmer nhân dịp Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây là hoạt động thiết thực, vừa thể hiện sự hướng về cội nguồn, tình cảm sâu sắc, sự tri ân công lao to lớn nuôi dưỡng, đùm bọc của nhân dân đối với cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang, vừa là một hình thức để giáo dục truyền thống, động viên thế hệ trẻ phấn đấu, có ý chí vươn lên.
Tại huyện Trà Ôn, Tết quân dân và Ngày hội Văn hóa - Thể thao đồng bào Khmer được tổ chức tại xã Trà Côn với nhiều hoạt động thiết thực, có sự tham gia của các lực lượng đại diện ban, ngành, đoàn thể huyện và 13 xã, thị trấn cùng người dân địa phương. Trong 2 ngày, các lực lượng đã gắn bó với người dân địa phương, cùng tham gia nhiều hoạt động văn hóa, thể thao ý nghĩa, góp phần mang đến sinh khí phấn khởi trong những ngày Tết cổ truyền của đồng bào Khmer như: Chỉnh trang các tuyến đường dân sinh, sửa chữa nhà, khánh thành cầu giao thông nông thôn, lắp đặt đèn chiếu sáng năng lượng mặt trời, tổ chức phiên chợ "0 đồng", thăm và tặng quà gia đình chính sách…

Tuyến đèn đường năng lượng mặt trời tại ấp Ngãi Lộ A - Thôn Rôn dài gần 1,5km vừa được lắp đặt với kinh phí 100 triệu đồng, trong đó có 60 triệu đồng là sự chung tay đóng góp của người dân địa phương. Trong không khí tất bật đón Tết, người dân phấn khởi tham gia lễ khánh thành tuyến đèn đường. Ông Thạch Truôn (xã Trà Côn, huyện Trà Ôn) cho biết: “Thời gian qua, Nhà nước quan tâm hỗ trợ đồng bào Khmer chính sách vay vốn phát triển kinh tế, xây dựng nhà cửa, đường, đèn đường... nên quê hương nơi đây ngày càng phát triển. Bà con địa phương rất phấn khởi vì tuyến đường đã được thảm nhựa, nay lại được đầu tư thêm đèn đường, đi lại rất thuận tiện”.
Đón cán bộ, chiến sĩ về ăn Tết, đồng bào Khmer xã Trà Côn, huyện Trà Ôn phấn khởi, trang hoàng nhà cửa, tổ chức các bữa cơm thân mật cùng các chiến sỹ. Ông Thạch Rem, xã Trà Côn, huyện Trà Ôn cho biết: "Trong thời gian Tết Chôl Chnăm Thmây, bà con rất vui khi có các chiến sỹ công an, bộ đội, các ban ngành về chung vui, coi như con cháu trong gia đình. Mọi người cùng làm việc, ăn cơm quây quần, cùng nhau trò chuyện, kể nhau nghe về công việc và chia sẻ mong muốn của người dân đồng bào Khmer trong năm mới".

Chỉ huy trưởng Ban chỉ huy quân sự xã Phú Thành, huyện Trà Ôn Nguyễn Hải Lâm chia sẻ: “Chúng tôi cùng san sẻ chuyện gia đình, chuyện công việc như những thành viên trong gia đình. Qua tiếp xúc, bản thân tôi cảm nhận được sự thân thiện và nhiệt tình từ bà con, từ đó ý thức sâu sắc hơn về truyền thống đoàn kết của dân tộc, của quân với dân, để tiếp tục phấn đấu trong công việc, san sẻ những khó khăn với đồng bào, phát huy tinh thần yêu nước và khối đoàn kết toàn dân tộc”.
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Trà Ôn Nguyễn Chí Hiếu cho biết, các hoạt động trong Tết quân dân đã thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng bộ, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang đối với nhân dân trên địa bàn, trong đó có đồng bào Khmer. Các hoạt động không chỉ góp phần củng cố, thắt chặt quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt giữa quân và dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà còn thể hiện sự quan tâm, đồng hành của chính quyền địa phương, tạo sự phấn khởi trong đồng bào Khmer để đón Tết cổ truyền vui tươi, an toàn, đầm ấm; từ đó, động viên người dân tiếp tục phấn đấu lao động, sản xuất để chăm lo gia đình và đóng góp cho sự phát triển của quê hương, đất nước.
Đậm đà bản sắc, thặt chặt nghĩa tình
Xã Đông Thành, thị xã Bình Minh là nơi diễn ra các hoạt động Tết quân dân 2025 và Ngày hội Văn hóa - thể thao đồng bào Khmer năm 2025 của tỉnh Vĩnh Long. Trong Tết quân dân, các lực lượng thuộc các sở, ngành, đoàn thể và chiến sỹ lực lượng vũ trang đã có mặt để “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với người dân nơi đây và tham gia nhiều hoạt động an sinh xã hội, góp phần tô thắm tình quân dân, xây dựng thế trận lòng dân ngày càng vững chắc.
Lần thứ hai tham gia hoạt động Tết quân dân, chiến sỹ Nguyễn Quí Danh (Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Vĩnh Long) rất phấn khởi tham gia mọi hoạt động với người dân nơi mình “cùng ở”. Các chiến sỹ trẻ đã cùng nhau dọn dẹp nhà cửa, chỉnh trang sân vườn, cùng hòa vào không khí chuẩn bị đón Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây với gia đình.
Tết quân dân gắn với Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây cũng là dịp để giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer. Các lực lượng đã cùng người dân tham gia nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, văn nghệ sôi nổi như: Hội diễn Văn nghệ quần chúng đồng bào Khmer; Hội thi bánh mứt và ẩm thực truyền thống Khmer; Gói bánh tét cộng đồng..”, các giải thể thao, trò chơi dân gian… Các hoạt động vừa góp phần giữ gìn nét văn hóa, ẩm thực của đồng bào Khmer, đồng thời tạo không khí phấn khởi ngày Tết Chôl Chnăm Thmây ở địa phương, làm tăng thêm tình làng nghĩa xóm, gắn kết hơn nghĩa tình quân dân.

Trong không khí nô nức của ngày hội, bà Thạch Thị Kim (xã (Đông Thành, thị xã Bình Minh) cùng nhiều người dân ở địa phương đã gác lại công việc nhà, cùng tham gia hoạt động gói bánh tét cộng đồng. Người thì chuẩn bị lá chuối, người cho củi, người cho mượn cái nồi… Tất cả cùng góp sức để cho hoạt động thêm phần sôi nổi. Bà Thạch Thị Kim phấn khởi nói: “Nghe Tết quân dân bà con hào hứng lắm và đã chuẩn bị từ mấy ngày trước rồi. Bộ đội đến thì bà con cùng nhau gói bánh, nấu bánh, rồi ăn cơm với nhau. Các đại biểu, bộ đội về đây ở với dân, ai cũng vui mừng. Ban ngày thì mọi cùng nhau tham gia các hoạt động hội thi, thể thao, buổi tối bà con rủ nhau đi xem văn nghệ, bà con rất vui, rất phấn khởi”.

Tham gia hoạt động, các cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang đã “xắn tay áo” cùng người dân chuẩn bị bánh mứt cho ngày Tết cổ truyền. Người thì xào nếp, người thì gói bánh, người lo canh lửa … Mọi người cùng nhau góp sức, sẻ chia tình cảm để Ngày Tết quân dân thêm ấm tình và trọn vẹn.
Tham gia Tết quân dân nhiều lần, Thiếu tá chuyên nghiệp Mai Thị Kim Lành (Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Vĩnh Long) cảm thấy rất ý nghĩa vì được đóng góp một phần công sức nhỏ để giúp bà con đón Tết vui tươi, ấm áp, đồng thời thắt chặt tình quân dân, thực hiện phương châm đi dân nhớ ở dân thương, phát huy truyền thống đoàn kết quý báu của dân tộc.
Phó Chủ tịch tỉnh Vĩnh Long Nguyễn Thị Quyên Thanh cho biết, Tết quân dân được tổ chức vào dịp Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer là hoạt động thiết thực, vừa thể hiện sự hướng về cội nguồn, tình cảm sâu sắc, vừa là một hình thức để giáo dục truyền thống, tinh thần đoàn kết và yêu nước của nhân dân. Đây được xem là mô hình “Dân vận khéo” tổng hợp nhằm xây dựng “thế trận lòng dân” trong khu vực phòng thủ của tỉnh.
Thông qua chuỗi các hoạt động đã thể hiện sự quan tâm, chăm lo của Đảng bộ, chính quyền, ban, ngành, đoàn thể và lực lượng vũ trang tỉnh đối với nhân dân nói chung và đồng bào Khmer nói riêng. Tết quân dân với nhiều hoạt động thiết thực, ý nghĩa đã gắn kết nghĩa tình quân dân, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy, thúc đẩy những tiềm năng, nỗ lực phấn đấu vươn lên xây dựng kinh tế gia đình và chung tay tham gia các hoạt xã hội vì cộng đồng của người dân địa phương./.
Lê Thúy Hằng
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn
