Hà Giang: Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào hoạt động du lịch

Những người phụ nữ Lô Lô tự may, thêu trang phục cho mình. Ảnh: Nam Thái – TTXVN
Những người phụ nữ Lô Lô tự may, thêu trang phục cho mình. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Đến thăm bản du lịch cộng đồng Lô Lô Chải (xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang), nhiều du khách bị thu hút bởi những bộ trang phục truyền thống rực rỡ, được phụ nữ Lô Lô tự tay thêu thùa với nhiều hoa văn, họa tiết đặc sắc. Từ lâu nay, đồng bào Lô Lô đã đưa các sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào phục vụ du lịch, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập.

Độc đáo hoa văn trang phục người Lô Lô

Người Lô Lô là một trong 16 dân tộc rất ít người ở Việt Nam với hai nhánh là Lô Lô đen và Lô Lô hoa, sinh sống chủ yếu tại hai huyện Lũng Cú, Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang) và huyện Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng). Văn hóa dân gian Lô Lô đa dạng, đặc sắc, thể hiện qua các điệu nhảy múa, hát ca, truyện cổ... cùng cách thêu, ghép vải thành hoa văn trang trí hoa văn trên khăn, áo, váy, quần có nét riêng biệt.

Với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ trời đất, thần núi, thần rừng…, hoa văn trên trang phục của người Lô Lô đen ở bản Lô Lô Chải (xã Lũng Cú, Đồng Văn) cũng là các họa tiết biểu trưng cho trời - đất, thần linh, thiên nhiên, cây cỏ, động vật xung quanh…

Hà Giang: Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào hoạt động du lịch ảnh 1Lúc nông nhàn, những người phụ nữ Lô Lô thường tập trung tại nhà văn hóa cộng đồng để thêu thổ cẩm. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Chị Vàng Thị Xuyến (nghệ nhân thêu thổ cẩm tại bản Lô Lô Chải) cho biết, điểm nhấn trong trang phục truyền thống của người Lô Lô Chải là hoa văn được tạo hình từ việc đính những chiếc khuy sát gần nhau, tạo thành hàng theo mép khăn, mũ, tay áo, thân áo, yếm… của người phụ nữ Lô Lô Chải. Những hàng khuy đó thể hiện cho sự đoàn kết, gắn kết thành một cộng đồng của đồng bào dân tộc Lô Lô.

Chị Vàng Thị Xuyến chia sẻ, chị được học thêu từ khi còn rất nhỏ. Từ khi 7 - 8 tuổi, bà, mẹ đã dạy chị cách thêu, ghép vải tạo hình hoa văn truyền thống. Vì thế, đến khi 12 - 13 tuổi, chị đã thành thạo việc thêu thùa, bắt đầu tự làm cho mình những bộ trang phục truyền thống. Phụ nữ Lô Lô không dùng khung thêu mà chỉ cầm miếng vải để thêu. Do đó, các đường kim mũi chỉ đòi hỏi đôi tay rất khéo léo.

Tiến sỹ Lò Giàng Páo (nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà dân tộc học người Lô Lô) cho biết, hoa văn trên trang phục của người Lô Lô đã được các nhà nghiên cứu đánh giá ở tầm giá trị nghệ thuật, có tính thẩm mỹ cao. Hoa văn cách điệu mang tính biểu trưng, có ý nghĩa và được phối hợp nhuần nhuyễn như một tác phẩm nghệ thuật tạo hình chứ không chỉ đơn thuần là tái hiện các hình ảnh cuộc sống thường nhật lên trang phục như nhiều dân tộc khác.

Hà Giang: Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào hoạt động du lịch ảnh 2Những mảnh vải nhỏ hình tam giác, các họa tiết… được ghép với nhau để tạo ra những hình thể mới đa dạng. Ảnh: Nam Thái - TTXVN

Giá trị nghệ thuật của những hoa văn trên trang phục truyền thống của đồng bào Lô Lô đã được công nhận, nghệ thuật trang trí trên trang phục của người Lô Lô đen xã Lũng Cú đã được ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia loại hình tri thức dân gian nghề thủ công truyền thống. Đây là niềm vinh dự, tự hào của người dân Lô Lô Chải, đặc biệt là với phụ nữ, khi hoa văn trên trang phục của họ, những sản phẩm thêu thùa trong đời sống thường nhật đã trở thành Di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia.

Khai thác sản phẩm truyền thống phục vụ du lịch

Du lịch cộng đồng ở Lô Lô Chải phát triển mạnh mẽ, ngày càng có nhiều du khách đến tham quan, nghỉ lại, vừa để chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ nơi Cực Bắc Tổ quốc, vừa trải nghiệm văn hóa, tìm hiểu phong tục, tập quán của người dân địa phương. Cùng với sự phát triển của du lịch cộng đồng, các dịch vụ khác cũng phát triển theo, trong đó có các sản phẩm thủ công truyền thống do phụ nữ Lô Lô Chải thêu thùa được nhiều du khách ưa chuộng. Đặc biệt là dịch vụ thuê trang phục truyền thống của đồng bào Lô Lô chụp ảnh lưu niệm.

Hà Giang: Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào hoạt động du lịch ảnh 3Những người phụ nữ Lô Lô tự may, thêu trang phục cho mình. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Vừa giúp du khách mặc bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình, chị Lù Thị Vấn (chủ quán cà phê Cực Bắc, thôn Lô Lô Chải) chia sẻ, phụ nữ Lô Lô thường rất cẩn thận, tỉ mỉ, phải mất thời gian rất lâu mới có thể hoàn thành một sản phẩm thổ cẩm. Trung bình, một bộ quần áo truyền thống chị phải mất khoảng 2 - 3 năm mới có thể hoàn thành. Để đáp ứng được nhu cầu của du khách, phụ nữ ở Lô Lô Chải vẫn thường xuyên gặp nhau, chia sẻ kinh nghiệm và giúp nhau nâng cao kỹ năng thêu thùa, làm thêm mẫu mã sản phẩm mới phục vụ du khách, vừa gìn giữ được nghề truyền thống của dân tộc, vừa có thêm thu nhập cho gia đình.

Xúng xính trong bộ trang phục thổ cẩm rực rỡ của phụ nữ Lô Lô, chị Hiền Chi (du khách đến từ Hà Nội) cho biết, đây là lần đầu tiên chị đến tham quan làng văn hóa du lịch Lô Lô Chải, được trải nghiệm những nét đặc sắc của văn hóa, ẩm thực của đồng bào nơi đây.

“Phong cảnh nơi đây thật đẹp, thật yên bình. Đặc biệt, tôi rất thích thú vẻ đẹp rực rỡ và những hoa văn, họa tiết cầu kỳ của bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Lô Lô, nên muốn mặc thử và chụp ảnh để làm kỷ niệm”, chị Hiền Chi chia sẻ.

Chị Lù Thị Vấn cho biết, mỗi bộ trang phục chị cho thuê mặc một lần với giá 100.000 đồng. Ở Lô Lô Chải, các gia đình có làm du lịch cộng đồng đều có những bộ trang phục cho khách thuê mặc, dịch vụ này được rất nữ du khách ưa chuộng. Gia đình chị có thêm thu nhập từ dịch vụ này.

Hà Giang: Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào hoạt động du lịch ảnh 4Trang phục truyền thống được người Lô Lô đen ở Lũng Cú (Hà Giang) sử dụng thường xuyên, đặc biệt trong các dịp Lễ, Tết và những ngày quan trọng. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Không chỉ trải nghiệm mặc thử trang phục và chụp ảnh lưu niệm, du khách khi đến tham quan thôn Lô Lô Chải còn có thể mua những sản phẩm thổ cẩm quà tặng như: ví, túi xách, vỏ gối, khăn trải bàn, đồ lưu niệm... do phụ nữ Lô Lô Chải làm ra với những hoa văn độc đáo, mang đặc trưng văn hóa Lô Lô. Các sản phẩm thổ cẩm này vừa là di sản văn hóa truyền thống giúp du khách hiểu sâu sắc hơn về đời sống sinh hoạt của người Lô Lô, vừa là “tài sản” đặc biệt, giúp các chị em có thêm thu nhập, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho gia đình.

Phương Hà

(TTXVN)
Dân tộc Lô Lô

Tên tự gọi: Lô Lô.

Tên gọi khác: Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn.

Nhóm địa phương: Lô Lô hoa và Lô Lô đen.

Dân số: 4.541 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.

Lịch sử: Họ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang.

Hoạt động sản xuất: Người Lô Lô chủ yếu làm ruộng nước và nương định canh với các cây trồng chính như lúa nếp, lúa tẻ và ngô. Chăn nuôi gia đình tương đối phát triển và là một nguồn lợi đáng kể.

Ăn: Người Lô Lô chủ yếu ăn ngô bằng cách xay thành bột đồ chín. Bữa ăn phải có canh. Họ thường dùng bát và thìa bằng gỗ.

Mặc: Phụ nữ có nhóm mặc áo cổ tròn, xẻ ngực, có nhóm mặc áo cổ vuông chui đầu, quần chân què, có nơi bên ngoài còn quấn xà cạp. Trang trí trên y phục bằng hoa văn chắp ghép những mảng vải màu to. Họ có sử dụng hoa văn in bằng sáp ong.

Lò Thị Vân (dân tộc Lô Lô, Mèo Vạc, Hà Giang).jpg
Lò Thị Vân (dân tộc Lô Lô, Mèo Vạc, Hà Giang)

: Tuỳ từng nơi họ sống trong ba loại nhà: nhà trệt, nhà sàn hoặc nhà nửa sàn nửa đất ở các huyện Ðồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai).

Phương tiện vận chuyển: Người Lô Lô quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có hai quai để chuyên chở; địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.

Quan hệ xã hội: Người Lô Lô sống tập trung trong các bản tương đối ổn định. Tính cộng đồng tộc người thể hiện rõ nét.

Có hơn 30 dòng họ khác nhau. Mỗi dòng họ thường quần tụ trong phạm vi một làng bản, thờ cúng chung một ông tổ và có một khu nghĩa địa riêng nằm trong nghĩa địa chung của công xã. Người Lô Lô thích các quan hệ hôn nhân nội tộc người và thực hiện nguyên tắc ngoại hôn giữa các dòng họ.

Cưới xin: Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán với việc thách cưới cao (bạc trắng, rượu, thịt...). Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy con gái cậu song không được ngược lại.

Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai phải kiêng kỵ nhiều trong chế độ ăn uống và sản xuất. Sản phụ đẻ ở nhà với sự giúp đỡ của bà mụ trong bản. Sau 12 ngày làm lễ đặt tên cho con và có thể đổi tên nếu đứa trẻ hay khóc hoặc chậm lớn.

Ma chay: Tang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hoá trang, nhảy múa, đánh lộn... Dấu vết của tục săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay quả bầu có vẽ mặt người trong tang lễ.

Thờ cúng: Người Lô Lô thờ cúng tổ tiên, bố mẹ và những người thân đã mất. Trên bàn thờ có những bài vị hình nhân bằng gỗ, vẽ mặt bằng than đen. Linh hồn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh.

Lễ tết: Tết Nguyên đán như người Hán và người Việt. Ngoài ra còn có tục ăn Cơm mới, tết Ðoan ngọ, Rằm tháng Bảy...

Lịch: Họ sử dụng lịch truyền miệng chia năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với một con vật.

Học: Khoảng thế kỷ thứ 14 người Lô Lô đã có chữ tượng hình với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được ghi trên các tấm gỗ mỏng, trên da thú hoặc loại giấy dày, thô. Tới nay chỉ có một số gia đình còn giữ lại được một vài mảnh có ghi lại loại chữ đó mà ít ai đọc được.

Văn nghệ: Là một trong số ít các dân tộc ở nước ta hiện nay còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền thống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn hồng thuỷ. Truyện kể rằng: xưa có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu để chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi lên mặt nước. Hết lụt họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là thuỷ tổ của loài người tái sinh.

Trống đồng với tư cách là nhạc khí chỉ được dùng trong đám tang, giữ nhịp cho các điệu múa dân gian của cộng đồng. Quan niệm về âm dương, sự sinh sôi nảy nở có lẽ còn được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực và cái cùng một lúc. Trống treo trên giá đặt ở phía chân người chết; mặt của hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng ở giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ những người đàn ông chưa vợ hoặc có vợ không ở trong thời kỳ thai nghén mới được đánh trống.

Trống đồng không những là một tài sản quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính chất tôn giáo. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên. Chỉ có trong đám ma mới đánh trống đồng. Ngày thường, người ra chôn trống dưới đất ở nơi sạch sẽ, kín đáo.

Theo cema.gov.vn

Dân tộc Lô Lô

Có thể bạn quan tâm

An Giang tập trung khai thác du lịch đường sông

An Giang tập trung khai thác du lịch đường sông

Là tỉnh đầu nguồn của vùng châu thổ sông Cửu Long, An Giang là nơi đón nhận dòng Mê Công chảy vào đất Việt, rồi chia làm hai nhánh sông Tiền, sông Hậu. Đây chính là lợi thế để tỉnh phát triển nhiều ngành kinh tế, trong đó có lĩnh vực du lịch, dịch vụ. Việc khai thác, phát triển hiệu quả các sản phẩm du lịch gắn với hệ thống đường sông sẽ góp phần đưa An Giang trở thành địa phương phát triển năng động, động lực tăng trưởng cho cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước.

Về với những đỉnh núi Lai Châu kỳ vĩ

Về với những đỉnh núi Lai Châu kỳ vĩ

Tối 20/12, tại Quảng trường nhân dân tỉnh, Tuần Du lịch - Văn hóa Lai Châu năm 2024 với chủ đề “Về với những đỉnh núi Lai Châu kỳ vĩ” đã chính thức khai mạc.

Quảng Bình tìm hướng đột phá phát triển du lịch nông thôn, cộng đồng

Quảng Bình tìm hướng đột phá phát triển du lịch nông thôn, cộng đồng

Nằm ở miền Trung Việt Nam, tỉnh Quảng Bình có nhiều danh lam thắng cảnh thiên nhiên kỳ thú, hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế. Bên cạnh thế mạnh là những sản phẩm du lịch gắn với hoạt động khám phá thiên nhiên, nghỉ dưỡng…, ngành du lịch tỉnh Quảng Bình hướng đến phát triển du lịch nông thôn, du lịch cộng đồng để tạo bước đột phá. Tìm ra điểm riêng biệt, hút khách để xây dựng các tour, tuyến du lịch nông nghiệp, cộng đồng là mục tiêu của ngành du lịch tỉnh Quảng Bình, cũng là trăn trở của các đơn vị lữ hành đang khai thác tour, sản phẩm du lịch tại đây.

Tiềm năng du lịch khám phá nơi biên giới Mường Nhé

Tiềm năng du lịch khám phá nơi biên giới Mường Nhé

Mường Nhé là huyện biên giới của tỉnh Điện Biên, có đường biên tiếp giáp hai nước bạn Lào và Trung Quốc, cũng là điểm cực Tây Bắc Tổ quốc, được mệnh danh nơi “một tiếng gà gáy, ba nước cùng nghe”. Đây cũng là một trong những khu vực có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và văn hóa dân tộc đa dạng, độc đáo. Những tiềm năng đó đang mở ra hướng phát triển du lịch khám phá, trải nghiệm nơi vùng đất biên giới này.

Đua ghe ngo là phần hấp dẫn nhất trong Lễ hội Ook Om Bok , một trong 3 lễ hội lớn của người Khmer, bên cạnh Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay và lễ cúng ông bà Sene Dolta. Ảnh: An HIếu

Khám phá nét độc đáo qua Lễ hội đua ghe Ngo truyền thống của đồng bào Khmer Sóc Trăng

Đối với đồng bào Khmer nói chung và đồng bào Khmer Sóc Trăng nói riêng, chiếc ghe ngo có vị trí vô cùng quan trọng, được xem là vị thần bảo vệ sự bình yên, là hiện thân của tình đoàn kết và sức mạnh thôn xóm. Vì thế, khi có ghe ngo thì bà con Khmer từ trẻ đến già đều thể hiện sự trân trọng và yêu thích khi được góp sức cho đội ghe và thôn xóm của mình, nhiều gia đình sẵn sàng tự bỏ tiền để lo cho cả đội ghe ngo từ lúc tập luyện cho đến ngày khai hội.

Với nghệ thuật kiến trúc đặc sắc và ấn tượng, với gam màu trắng làm chủ đạo, với các hoạt tiết trang trí ánh vàng ánh bắt mắt, Chùa Peam Buôl Thmây tọa lạc ở Khóm 5, Phường 4, Thành phố Sóc Trăng, đang là một trong những điểm "check in" lý tưởng khi du khách đặt chân đến Sóc Trăng. Ảnh: An Hiếu

Giá trị truyền thống từ các ngôi chùa Khmer tại Sóc Trăng

Có thể nói, với đồng bào Khmer, ngôi chùa là nơi chứa đựng những giá trị tâm linh, tín ngưỡng thiêng liêng, sâu sắc, nơi sinh hoạt tôn giáo, trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân cư trong phum, sóc. Là nơi đồng bào Khmer tập trung đông nhất, chiếm khoảng 30 % dân số, Sóc Trăng hiện có 92 ngôi chùa Khmer, trong đó có 2 ngôi chùa (chùa Kh’leang, chùa Dơi) được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

Du khách được trải nghiệm cùng làm bánh với bà con đồng bào dân tộc Vân Kiều (xã Tân Hoá, huyện Minh Hoá).Ảnh: Mạnh Thành - TTXVN

Quảng Bình phát triển du lịch nông thôn theo hướng xanh, bền vững

Những năm gần đây, du lịch nông thôn đang là hướng đi mới, mang tính bền vững với nhiều địa phương, trong đó có Quảng Bình. Để tiếp tục đa dạng hóa thị trường khách du lịch trong nước và quốc tế, tỉnh tập trung đầu tư, hướng đến phát triển bền vững các sản phẩm du lịch nông thôn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, môi trường cảnh quan nông thôn, thúc đẩy sự phát triển ổn định của xã hội.

Sóc Trăng phát triển sản phẩm du lịch từ văn hóa Khmer

Sóc Trăng phát triển sản phẩm du lịch từ văn hóa Khmer

Sóc Trăng là tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống, chiếm trên 30% dân số của tỉnh (khoảng 361.000 người). Toàn tỉnh có 93 ngôi chùa Phật giáo Nam tông Khmer. Sóc Trăng xác định đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó phát triển du lịch tâm linh gắn với văn hóa của đồng bào dân tộc Khmer là trọng tâm.

Ninh Thuận thúc đẩy phát triển kinh tế ban đêm thu hút khách du lịch

Ninh Thuận thúc đẩy phát triển kinh tế ban đêm thu hút khách du lịch

Tỉnh Ninh Thuận đang đẩy mạnh việc huy động các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế ban đêm, cung cấp các dịch vụ ăn uống, mua sắm, vui chơi, giải trí, văn hóa - nghệ thuật nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch, kéo dài thời gian lưu trú của du khách và tăng thu nhập cho người dân. Qua đó, góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Bình Phước đầu tư tạo sản phẩm du lịch đặc trưng

Bình Phước đầu tư tạo sản phẩm du lịch đặc trưng

Là tỉnh có vị trí địa lý chiến lược với các tuyến giao thông kết nối thuận lợi, Bình Phước giữ vai trò quan trọng, cửa ngõ kết nối, giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng Đông Nam Bộ với Tây Nguyên và Campuchia, Lào, Thái Lan. Đặc điểm về tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng cùng với truyền thống lịch sử, văn hóa của địa phương đã tạo nên nguồn tài nguyên du lịch tương đối đa dạng, phong phú.

Làng cổ Khuổi Ky, xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh (Cao Bằng) xuất hiện một số ngôi nhà hiện đại, phá nát không gian truyền thống. Nếu không có biện pháp kịp thời ngăn chặn, ngôi làng sẽ không còn hấp dẫn du khách. Ảnh: TTXVN phát

Cần có giải pháp bảo vệ tài nguyên du lịch cho Cao Bằng

Cao Bằng là một tỉnh rất giàu tài nguyên du lịch với nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng; những bản làng cổ đẹp như tranh vẽ, những nét văn hóa truyền thống đa dạng. Đó là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá để phát triển du lịch. Tuy nhiên, nhiều khu vực cảnh quan thiên nhiên của Cao Bằng đang bị xâm hại nghiêm trọng, những ngôi làng cổ dần bị thay thế bởi nhà hiện đại, những nét văn hóa truyền thống dần bị mai một khiến cho những nguồn tài nguyên du lịch có nguy cơ bị phá hủy, không thể khôi phục được.

Tôn vinh nét đẹp, giá trị văn hóa của sen

Tôn vinh nét đẹp, giá trị văn hóa của sen

Nhằm tôn vinh hoa sen và các sản phẩm từ sen, tối 29/11 tại thành phố Vinh, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Nghệ An chủ trì, phối hợp với Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch), Hiệp hội Văn hóa ẩm thực Việt Nam tổ chức “Lễ hội Du lịch và ẩm thực sen”.

Quang cảnh hội nghị. Ảnh: Văn Tý - TTXVN

Định vị thương hiệu du lịch Nghệ An

Chiều 29/11, tại thành phố Vinh, Trung tâm Xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch tỉnh Nghệ An tổ chức Hội nghị "Phát triển sản phẩm du lịch Nghệ An gắn với thương hiệu du lịch quốc gia trong vùng du lịch Bắc Trung Bộ".

Ninh Thuận kết nối sản phẩm đặc thù gắn với điểm đến du lịch

Ninh Thuận kết nối sản phẩm đặc thù gắn với điểm đến du lịch

Tỉnh Ninh Thuận đang tích cực triển khai các hoạt động quảng bá, xúc tiến thương mại, xây dựng các điểm đến, gắn sản phẩm OCOP với các hoạt động du lịch, văn hóa. Cách làm này không chỉ giúp đa dạng các tour, tuyến du lịch, tăng sức hút với du khách, mà còn mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm OCOP của địa phương.

Độc lạ vườn hồng 130 năm tuổi hấp dẫn du khách ở Nghệ An

Độc lạ vườn hồng 130 năm tuổi hấp dẫn du khách ở Nghệ An

Những ngày này, vườn hồng cổ gần 130 năm tuổi ở núi Đại Huệ, xã Nam Anh (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) đã thu hút hàng trăm du khách đến tham quan, check-in. Những vườn hồng cổ nơi đây kết nối cùng Khu di tích đặc biệt Kim Liên và chùa Đại Tuệ đã tạo nên điểm tham quan, du lịch liên hoàn cho khu vực.