Hà Giang: Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào hoạt động du lịch

Những người phụ nữ Lô Lô tự may, thêu trang phục cho mình. Ảnh: Nam Thái – TTXVN
Những người phụ nữ Lô Lô tự may, thêu trang phục cho mình. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Đến thăm bản du lịch cộng đồng Lô Lô Chải (xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang), nhiều du khách bị thu hút bởi những bộ trang phục truyền thống rực rỡ, được phụ nữ Lô Lô tự tay thêu thùa với nhiều hoa văn, họa tiết đặc sắc. Từ lâu nay, đồng bào Lô Lô đã đưa các sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào phục vụ du lịch, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập.

Độc đáo hoa văn trang phục người Lô Lô

Người Lô Lô là một trong 16 dân tộc rất ít người ở Việt Nam với hai nhánh là Lô Lô đen và Lô Lô hoa, sinh sống chủ yếu tại hai huyện Lũng Cú, Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang) và huyện Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng). Văn hóa dân gian Lô Lô đa dạng, đặc sắc, thể hiện qua các điệu nhảy múa, hát ca, truyện cổ... cùng cách thêu, ghép vải thành hoa văn trang trí hoa văn trên khăn, áo, váy, quần có nét riêng biệt.

Với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ trời đất, thần núi, thần rừng…, hoa văn trên trang phục của người Lô Lô đen ở bản Lô Lô Chải (xã Lũng Cú, Đồng Văn) cũng là các họa tiết biểu trưng cho trời - đất, thần linh, thiên nhiên, cây cỏ, động vật xung quanh…

Hà Giang: Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào hoạt động du lịch ảnh 1Lúc nông nhàn, những người phụ nữ Lô Lô thường tập trung tại nhà văn hóa cộng đồng để thêu thổ cẩm. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Chị Vàng Thị Xuyến (nghệ nhân thêu thổ cẩm tại bản Lô Lô Chải) cho biết, điểm nhấn trong trang phục truyền thống của người Lô Lô Chải là hoa văn được tạo hình từ việc đính những chiếc khuy sát gần nhau, tạo thành hàng theo mép khăn, mũ, tay áo, thân áo, yếm… của người phụ nữ Lô Lô Chải. Những hàng khuy đó thể hiện cho sự đoàn kết, gắn kết thành một cộng đồng của đồng bào dân tộc Lô Lô.

Chị Vàng Thị Xuyến chia sẻ, chị được học thêu từ khi còn rất nhỏ. Từ khi 7 - 8 tuổi, bà, mẹ đã dạy chị cách thêu, ghép vải tạo hình hoa văn truyền thống. Vì thế, đến khi 12 - 13 tuổi, chị đã thành thạo việc thêu thùa, bắt đầu tự làm cho mình những bộ trang phục truyền thống. Phụ nữ Lô Lô không dùng khung thêu mà chỉ cầm miếng vải để thêu. Do đó, các đường kim mũi chỉ đòi hỏi đôi tay rất khéo léo.

Tiến sỹ Lò Giàng Páo (nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà dân tộc học người Lô Lô) cho biết, hoa văn trên trang phục của người Lô Lô đã được các nhà nghiên cứu đánh giá ở tầm giá trị nghệ thuật, có tính thẩm mỹ cao. Hoa văn cách điệu mang tính biểu trưng, có ý nghĩa và được phối hợp nhuần nhuyễn như một tác phẩm nghệ thuật tạo hình chứ không chỉ đơn thuần là tái hiện các hình ảnh cuộc sống thường nhật lên trang phục như nhiều dân tộc khác.

Hà Giang: Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào hoạt động du lịch ảnh 2Những mảnh vải nhỏ hình tam giác, các họa tiết… được ghép với nhau để tạo ra những hình thể mới đa dạng. Ảnh: Nam Thái - TTXVN

Giá trị nghệ thuật của những hoa văn trên trang phục truyền thống của đồng bào Lô Lô đã được công nhận, nghệ thuật trang trí trên trang phục của người Lô Lô đen xã Lũng Cú đã được ghi danh là Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia loại hình tri thức dân gian nghề thủ công truyền thống. Đây là niềm vinh dự, tự hào của người dân Lô Lô Chải, đặc biệt là với phụ nữ, khi hoa văn trên trang phục của họ, những sản phẩm thêu thùa trong đời sống thường nhật đã trở thành Di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia.

Khai thác sản phẩm truyền thống phục vụ du lịch

Du lịch cộng đồng ở Lô Lô Chải phát triển mạnh mẽ, ngày càng có nhiều du khách đến tham quan, nghỉ lại, vừa để chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ nơi Cực Bắc Tổ quốc, vừa trải nghiệm văn hóa, tìm hiểu phong tục, tập quán của người dân địa phương. Cùng với sự phát triển của du lịch cộng đồng, các dịch vụ khác cũng phát triển theo, trong đó có các sản phẩm thủ công truyền thống do phụ nữ Lô Lô Chải thêu thùa được nhiều du khách ưa chuộng. Đặc biệt là dịch vụ thuê trang phục truyền thống của đồng bào Lô Lô chụp ảnh lưu niệm.

Hà Giang: Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào hoạt động du lịch ảnh 3Những người phụ nữ Lô Lô tự may, thêu trang phục cho mình. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Vừa giúp du khách mặc bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình, chị Lù Thị Vấn (chủ quán cà phê Cực Bắc, thôn Lô Lô Chải) chia sẻ, phụ nữ Lô Lô thường rất cẩn thận, tỉ mỉ, phải mất thời gian rất lâu mới có thể hoàn thành một sản phẩm thổ cẩm. Trung bình, một bộ quần áo truyền thống chị phải mất khoảng 2 - 3 năm mới có thể hoàn thành. Để đáp ứng được nhu cầu của du khách, phụ nữ ở Lô Lô Chải vẫn thường xuyên gặp nhau, chia sẻ kinh nghiệm và giúp nhau nâng cao kỹ năng thêu thùa, làm thêm mẫu mã sản phẩm mới phục vụ du khách, vừa gìn giữ được nghề truyền thống của dân tộc, vừa có thêm thu nhập cho gia đình.

Xúng xính trong bộ trang phục thổ cẩm rực rỡ của phụ nữ Lô Lô, chị Hiền Chi (du khách đến từ Hà Nội) cho biết, đây là lần đầu tiên chị đến tham quan làng văn hóa du lịch Lô Lô Chải, được trải nghiệm những nét đặc sắc của văn hóa, ẩm thực của đồng bào nơi đây.

“Phong cảnh nơi đây thật đẹp, thật yên bình. Đặc biệt, tôi rất thích thú vẻ đẹp rực rỡ và những hoa văn, họa tiết cầu kỳ của bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Lô Lô, nên muốn mặc thử và chụp ảnh để làm kỷ niệm”, chị Hiền Chi chia sẻ.

Chị Lù Thị Vấn cho biết, mỗi bộ trang phục chị cho thuê mặc một lần với giá 100.000 đồng. Ở Lô Lô Chải, các gia đình có làm du lịch cộng đồng đều có những bộ trang phục cho khách thuê mặc, dịch vụ này được rất nữ du khách ưa chuộng. Gia đình chị có thêm thu nhập từ dịch vụ này.

Hà Giang: Đưa sản phẩm thổ cẩm truyền thống vào hoạt động du lịch ảnh 4Trang phục truyền thống được người Lô Lô đen ở Lũng Cú (Hà Giang) sử dụng thường xuyên, đặc biệt trong các dịp Lễ, Tết và những ngày quan trọng. Ảnh: Nam Thái – TTXVN

Không chỉ trải nghiệm mặc thử trang phục và chụp ảnh lưu niệm, du khách khi đến tham quan thôn Lô Lô Chải còn có thể mua những sản phẩm thổ cẩm quà tặng như: ví, túi xách, vỏ gối, khăn trải bàn, đồ lưu niệm... do phụ nữ Lô Lô Chải làm ra với những hoa văn độc đáo, mang đặc trưng văn hóa Lô Lô. Các sản phẩm thổ cẩm này vừa là di sản văn hóa truyền thống giúp du khách hiểu sâu sắc hơn về đời sống sinh hoạt của người Lô Lô, vừa là “tài sản” đặc biệt, giúp các chị em có thêm thu nhập, góp phần xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống cho gia đình.

Phương Hà

(TTXVN)
Dân tộc Lô Lô Dân tộc Lô Lô

Tên tự gọi: Lô Lô.

Tên gọi khác: Mùn Di, Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn.

Nhóm địa phương: Lô Lô hoa và Lô Lô đen.

Dân số: 4.541 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng-Miến (ngữ hệ Hán-Tạng), gần với Miến hơn.

Lịch sử: Họ là cư dân có mặt rất sớm ở vùng cực bắc của Hà Giang.

Hoạt động sản xuất: Người Lô Lô chủ yếu làm ruộng nước và nương định canh với các cây trồng chính như lúa nếp, lúa tẻ và ngô. Chăn nuôi gia đình tương đối phát triển và là một nguồn lợi đáng kể.

Ăn: Người Lô Lô chủ yếu ăn ngô bằng cách xay thành bột đồ chín. Bữa ăn phải có canh. Họ thường dùng bát và thìa bằng gỗ.

Mặc: Phụ nữ có nhóm mặc áo cổ tròn, xẻ ngực, có nhóm mặc áo cổ vuông chui đầu, quần chân què, có nơi bên ngoài còn quấn xà cạp. Trang trí trên y phục bằng hoa văn chắp ghép những mảng vải màu to. Họ có sử dụng hoa văn in bằng sáp ong.

Lò Thị Vân (dân tộc Lô Lô, Mèo Vạc, Hà Giang).jpg
Lò Thị Vân (dân tộc Lô Lô, Mèo Vạc, Hà Giang)

: Tuỳ từng nơi họ sống trong ba loại nhà: nhà trệt, nhà sàn hoặc nhà nửa sàn nửa đất ở các huyện Ðồng Văn, Mèo Vạc (Hà Giang), Bảo Lạc (Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai).

Phương tiện vận chuyển: Người Lô Lô quen dùng gùi đan bằng mây, giang, có hai quai để chuyên chở; địu trẻ em trên lưng khi đi xa hoặc lúc làm việc.

Quan hệ xã hội: Người Lô Lô sống tập trung trong các bản tương đối ổn định. Tính cộng đồng tộc người thể hiện rõ nét.

Có hơn 30 dòng họ khác nhau. Mỗi dòng họ thường quần tụ trong phạm vi một làng bản, thờ cúng chung một ông tổ và có một khu nghĩa địa riêng nằm trong nghĩa địa chung của công xã. Người Lô Lô thích các quan hệ hôn nhân nội tộc người và thực hiện nguyên tắc ngoại hôn giữa các dòng họ.

Cưới xin: Phong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán với việc thách cưới cao (bạc trắng, rượu, thịt...). Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy con gái cậu song không được ngược lại.

Sinh đẻ: Phụ nữ khi mang thai phải kiêng kỵ nhiều trong chế độ ăn uống và sản xuất. Sản phụ đẻ ở nhà với sự giúp đỡ của bà mụ trong bản. Sau 12 ngày làm lễ đặt tên cho con và có thể đổi tên nếu đứa trẻ hay khóc hoặc chậm lớn.

Ma chay: Tang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hoá trang, nhảy múa, đánh lộn... Dấu vết của tục săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay quả bầu có vẽ mặt người trong tang lễ.

Thờ cúng: Người Lô Lô thờ cúng tổ tiên, bố mẹ và những người thân đã mất. Trên bàn thờ có những bài vị hình nhân bằng gỗ, vẽ mặt bằng than đen. Linh hồn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh.

Lễ tết: Tết Nguyên đán như người Hán và người Việt. Ngoài ra còn có tục ăn Cơm mới, tết Ðoan ngọ, Rằm tháng Bảy...

Lịch: Họ sử dụng lịch truyền miệng chia năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với một con vật.

Học: Khoảng thế kỷ thứ 14 người Lô Lô đã có chữ tượng hình với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được ghi trên các tấm gỗ mỏng, trên da thú hoặc loại giấy dày, thô. Tới nay chỉ có một số gia đình còn giữ lại được một vài mảnh có ghi lại loại chữ đó mà ít ai đọc được.

Văn nghệ: Là một trong số ít các dân tộc ở nước ta hiện nay còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền thống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn hồng thuỷ. Truyện kể rằng: xưa có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu để chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi lên mặt nước. Hết lụt họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là thuỷ tổ của loài người tái sinh.

Trống đồng với tư cách là nhạc khí chỉ được dùng trong đám tang, giữ nhịp cho các điệu múa dân gian của cộng đồng. Quan niệm về âm dương, sự sinh sôi nảy nở có lẽ còn được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực và cái cùng một lúc. Trống treo trên giá đặt ở phía chân người chết; mặt của hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng ở giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ những người đàn ông chưa vợ hoặc có vợ không ở trong thời kỳ thai nghén mới được đánh trống.

Trống đồng không những là một tài sản quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính chất tôn giáo. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên. Chỉ có trong đám ma mới đánh trống đồng. Ngày thường, người ra chôn trống dưới đất ở nơi sạch sẽ, kín đáo.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm