Gần 100 năm cây dừa sáp đầu tiên của Việt Nam “bén duyên” ở vùng đất Cầu Kè (Trà Vinh), đến nay, địa phương này đã có trên 171.000 cây dừa sáp, được trồng trên diện tích gần 780 ha, với sản lượng trung bình mỗi năm trên 3,3 triệu quả. Hiện quả dừa sáp được bán với giá từ 30.000-100.000 đồng/quả, nên mang lại hiệu quả kinh tế rất cao so với các giống dừa thường, cải thiện đáng kể thu nhập của gần 2.600 hộ trồng dừa sáp huyện Cầu Kè; trong đó, hộ Khmer chiếm trên 70%.
Nguồn thu nhập chính
Năm 1924, sau khi hoàn thành khóa tu học tại Campuchia, hòa thượng Thạch Sô trở về chùa Botumsakor (khóm 5, thị trấn Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh) và mang theo 2 cây dừa sáp giống để trồng tại chùa. Đây chính là 2 cây dừa sáp được trồng đầu tiên tại Việt Nam.
Quả dừa sáp có ngoại hình khá giống với dừa thường nhưng điểm đặc biệt là bên trong cơm rất dày, mềm, béo dẻo và gần như đặc ruột, cùng với một ít nước sệt quánh nhẹ. Loại quả này được xay sinh tố hoặc dằm với đường, sữa, ăn rất ngon và lạ miệng.
Ban đầu, cây dừa sáp chủ yếu được phật tử và vài hộ dân ở địa phương trồng ăn trong gia đình hoặc làm quà biếu. Nhờ hương vị độc đáo nên người dân truyền tai nhau; đến nay, loại quả này đã trở thành đặc sản của tỉnh Trà Vinh. Giống dừa sáp truyền thống rất đặc biệt, chỉ có thể ra quả sáp ở vùng đất Cầu Kè. Cùng nguồn giống nhưng khi trồng ở những vùng đất khác không ra quả sáp, chỉ cho ra những quả dừa bình thường. Chính vì vậy, dừa sáp Cầu Kè rất hút hàng; trở thành nguồn thu nhập chính của nhiều hộ Khmer ở địa phương.
Gia đình ông Thạch Dách, ấp Chông Nô 2, xã Hoà Tân, huyện Cầu Kè bắt đầu chuyển đổi 0,45 ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng dừa sáp từ năm 2008 và đến nay, vườn dừa sáp của gia đình ông lên đến 1,5 ha. Hiện tại, vườn dừa này cho thu hoạch từ 100-120 quả sáp/tháng, giá bán dao động từ 30.000-100.000/quả tuỳ loại sáp đặc, sáp lỏng hoặc sáp sệt. Cùng với nguồn dừa khô, mỗi tháng gia đình ông luôn đạt lợi nhuận ổn định hơn 10 triệu đồng, cao hơn rất nhiều lần so với trồng lúa trên cùng diện tích.
Tương tự, gia đình ông Thạch Chanh, xã Hòa Tân, huyện Cầu Kè cũng chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng dừa sáp từ năm 2009. Ban đầu, gia đình ông chỉ trồng 20 cây thử nghiệm trên 0,1 ha đất. Sau khoảng 5 năm cây cho thu hoạch, bình quân mỗi buồng dừa cho 2 quả sáp. Với giá bán từ 150.000 - 200.000 đồng/quả dừa sáp thời điểm đó, nông dân có mức thu nhập khá “khủng”, so với trồng lúa trên cùng diện tích.
Thấy rõ hiệu quả nên gia đình ông Chanh mạnh dạn mở rộng diện tích trồng dừa sáp lên 1,5 ha; trong đó, 150 cây dừa sáp giống truyền thống, và 80 cây dừa sáp giống cấy phôi. Bình quân mỗi tháng ông thu hoạch từ 300-400 quả dừa sáp; với giá bán dao động từ 30.000-100.000 đồng/quả tuỳ loại, gia đình ông có thu nhập ổn định từ vườn dừa sáp này trên 20 triệu đồng/tháng.
Những năm gần đây, các nhà khoa học của Trường Đại học Trà Vinh đã nghiên cứu thành công nhân giống dừa sáp bằng kỹ thuật nuôi cấy phôi, nuôi cấy mô, cho tỷ lệ quả sáp đạt 70 - 90%/buồng, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ đạt sáp của giống cây dừa sáp truyền thống (chỉ 10-20%/buồng) . Không chỉ vậy, giống dừa sáp cấy phôi còn có thể trồng ở nhiều vùng đất khác nhau, không như giống dừa truyền thống rất “kén” thổ nhưỡng, chỉ có thể thích nghi ở vùng đất Cầu Kè.
Bình quân mỗi năm, 1 cây dừa sáp truyền thống cho từ 20-40 quả sáp; trong khi với dừa sáp cấy phôi, sản lượng đạt gấp 5 lần trở lên. Vì vậy, nhiều hộ trồng dừa sáp ở huyện Cầu Kè đang thay dần giống dừa sáp cấy phôi vì lợi nhuận cao. Đến nay, trong số trên 171.000 cây dừa sáp của huyện, có trên 2.200 cây dừa sáp cấy phôi. Điều này khiến vùng dừa sáp truyền thống đặc sản của tỉnh Trà Vinh đang đứng trước nguy cơ bị thu hẹp, “xoá sổ”.
Giữ gìn đặc sản truyền thống
Phó Chủ tịch UBND huyện Cầu Kè Diêu Hùng Thắng cho biết, trước đây, huyện Cầu Kè là địa phương duy nhất của cả nước trồng được cây dừa sáp nhờ đặc tính thổ nhưỡng thích hợp. Vì vậy, quả dừa sáp từng mang lại cuộc sống rất sung túc cho nhiều hộ Khmer trên địa bàn nhờ luôn hút hàng, giá bán cao. Dừa sáp truyền thống là giống gen quý, nên địa phương đang tích cực tuyên truyền người dân không chặt bỏ cây dừa sáp truyền thống để trồng dừa sáp cấy phôi.
Công ty TNHH Chế biến Dừa sáp Cầu Kè (Vicosap) thành lập tháng 7/2020. Đây là đơn vị tiên phong và duy nhất tại Việt Nam chế biến đa dạng, chuyên sâu các sản phẩm từ dừa sáp. Tháng 5/2023, Tổ chức Kỷ lục Việt Nam trao bằng xác lập kỷ lục “Đơn vị chế biến sâu trái dừa sáp thành hệ thống nhiều dòng sản phẩm nhất, phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu” cho Vicosap. Đây cũng là đơn vị có sản phẩm “dừa sáp sợi” đạt chuẩn Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) cấp quốc gia (5 sao).
Ngoài ra, công ty có 7 dòng sản phẩm chính gồm: dừa sáp trái hút chân không; kẹo dừa sáp 3 vị (nguyên chất, ca cao và lá dứa); dừa sáp sợi; dừa sáp sấy khô giòn tan; sữa chua dừa sáp sấy khô giòn tan; bánh dinh dường dừa sáp 3 vị (chuối, khoai lang, bí đỏ) và sữa chua uống dừa sáp; với khoảng 200 loại sản phẩm chế biến sâu từ quả dừa sáp đã được đưa ra thị trường. Hiện tại, sản phẩm của Vicosap đã được nhiều người biết và tin dùng, làm quà biếu…
Không chỉ có mặt tại hệ thống siêu thị trong nước, các sản phẩm của Vicosap cũng bày bán ở các sân bay lớn như Tân Sơn Nhất, Cần Thơ, Đã Nẵng, Cam Ranh, Phú Quốc. Đồng thời, sản phẩm cũng được ngành chức năng tỉnh Trà Vinh hỗ trợ kết nối, đưa lên các sàn thương mại điện tử. Đặc biệt, sản phẩm của Vicosap đã xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, Anh Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc.
Ông Trần Duy Linh, Giám đốc Vicosap cho biết, hiện nay công ty chỉ thu mua dừa sáp truyền thống để làm nguyên liệu chế biến, với giá cao hơn giá thị trường khoảng 10.000 đồng/quả. Theo ông Linh, sản phẩm chế biến từ dừa sáp truyền thống đậm vị, béo dẻo và ngon hơn hẳn so với dừa cấy phôi.
Để bảo tồn giống dừa sáp truyền thống và đảm bảo được nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất của công ty, ông Trần Duy Linh đang phối hợp với chính quyền địa phương, ngành chức năng và các hộ trồng dừa sáp truyền thống thực hiện dự án “Làng bảo tồn dừa sáp nguyên bản gắn phát triển dịch vụ - du lịch cộng đồng, cải thiện sinh kế đồng bào Khmer”.
Theo đó, vùng nguyên liệu này được trồng theo tiêu chuẩn hữu cơ gắn với chỉ dẫn địa lý, dự kiến hoàn thành trong năm 2024. Dự án thành công sẽ giúp các hộ Khmer trồng dừa sáp truyền thống trên địa bàn huyện Cầu Kè gắn kết, tăng thu nhập, có thị trường tiêu thụ bền vững. Quả dừa sáp truyền thống- đặc sản của tỉnh Trà Vinh sẽ được bảo tồn và tiếp tục mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ Khmer địa phương.
Thanh Hòa
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn