Kiên Giang là tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống (chiếm trên 13% dân số) với hơn 56.000 hộ, khoảng 237.000 nhân khẩu, đứng thứ 3 ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (sau Trà Vinh, Sóc Trăng). Nhờ thực hiện tốt các chính sách dành cho đồng bào dân tộc thiểu số, cùng với tinh thần siêng năng, nhạy bén trong sản xuất kinh doanh của người dân, đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào dân tộc Khmer nơi đây không ngừng được cải thiện, nâng cao.

Vươn lên từ nghèo khó
Là người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc Khmer ấp Tà Teng, xã Phú Lợi, huyện biên giới Giang Thành (Kiên Giang), chị Thị Vi (45 tuổi) được người dân địa phương, đồng bào Khmer nơi đây quý mến vì tinh thần siêng năng, nhạy bén trong sản xuất, vươn lên từ nghèo khó, tham gia nhiều hoạt động giúp ích cho cộng đồng. Chị Vi cho biết, trước khi có cuộc sống như hiện nay, gia đình chị có hoàn cảnh khó khăn, phải bươn chải qua nhiều công việc.
Sau khi lập gia đình, vợ chồng chị Vi được cha mẹ cho 0,5ha đất ruộng và vườn tạp, nhưng do nhiễm phèn, diện tích đất này trồng lúa kém hiệu quả. Vì vậy, vợ chồng chị phải đi làm thêm nhiều công việc khác để kiếm sống… Sau khi tích lũy được một số vốn và vay thêm vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội để cải tạo đất ruộng, vợ chồng chị mua thêm đất ruộng mở rộng diện tích canh tác, tăng thu nhập. Đến nay, gia đình chị Vi sở hữu hơn 2,5ha đất ruộng, thu nhập trung bình mỗi năm khoảng 500 triệu đồng; năm 2020 đã xây dựng căn nhà khang trang.
Ngoài ra, với vai trò là Phó Bí thư Chi bộ, Chi hội trưởng Chi hội phụ nữ ấp, chị Thị Vi luôn tích cực tham gia các phong trào ở địa phương, đặc biệt là hỗ trợ, chăm lo cho các hộ dân tộc Khmer của ấp. “Tôi cũng là người dân đồng bào Khmer nên thuận tiện trong tiếp xúc để thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người dân để đề xuất hỗ trợ chính sách về vay vốn tín dụng, trao tặng vốn, phương tiện sản xuất, hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, cận nghèo và tư vấn phương thức làm ăn để họ vươn lên. Nhờ đó, tôi góp phần giúp hơn 30 hộ nghèo, cận nghèo có điều kiện vươn lên, có cuộc sống, thu nhập ổn định”, chị Vi chia sẻ.

Cũng là một hộ Khmer tiêu biểu về tinh thần siêng năng lao động, vươn lên từ nghèo khó, anh Danh Mích (45 tuổi) xã Ngọc Chúc, huyện Giồng Riềng cho biết, sau khi lập gia đình, vợ chồng anh ở trong căn chòi cột cây, lợp lá vào năm 2002, không có vốn làm ăn và không đất ruộng sản xuất. Vợ chồng anh sống chủ yếu bằng nhiều nghề làm thuê nhưng nhờ siêng năng mà vài năm sau đó, vợ chồng anh tích lũy được một số vốn và thế chấp thuê 0,8ha đất ruộng sản xuất. Không chỉ trồng lúa, vợ chồng anh Mích trồng nấm rơm, đan chổi và bán rau củ, quả ở chợ với nguồn thu nhập khoảng 200 triệu đồng/năm. Năm 2023, gia đình anh cũng xây được căn nhà kiên cố.
Một trường hợp khác cũng vượt qua nghèo khó bằng tinh thần chăm chỉ lao động và giỏi làm ăn ở xã Ngọc Chúc, huyện Giồng Riềng là hộ bà Thị Dậy (63 tuổi). Trước năm 2005, gia đình thuộc hộ nghèo nên vợ chồng bà cũng 7 người con thường phải chịu cảnh thiếu trước, hụt sau. Tuy nhiên, với tinh thần siêng năng, nhạy bén, vợ chồng bà Dậy đã thuê thêm đất ruộng để trồng lúa, đồng thời nhận cấy lúa, cắt lúa thuê. Các con của bà tranh thủ những tháng nghỉ hè đi chăn vịt mướn, giăng lưới, cấm câu, đặt trúm bắt cá, bắt lươn. Riêng bà Dậy, sau khi tích lũy được một số vốn, đến năm 2010, bà đã đầu tư chuồng trại, nuôi lợn nái, bán con giống và nuôi lợn thịt cho đến nay.
Nhờ đó, gia đình thoát khỏi cảnh nghèo khó, dần phát triển kinh tế. Các con được học hành đàng hoàng và có công ăn, việc làm ổn định. Hiện tại, trong 7 người con của bà Dậy có 3 người tốt nghiệp cao đẳng, đại học và công tác trong các ngành Công an, Y tế, Nông nghiệp. Còn 4 người con đã lập gia đình, có ngành nghề sản xuất, kinh doanh, cuộc sống khá giả.
“Vợ chồng tôi vui mừng vì khi đến tuổi xế chiều, các con đã có cuộc sống ổn định, gia đình vẫn còn 1,5 ha đất ruộng trồng lúa. Hiện nay, tuy tuổi cao nhưng tôi vẫn duy trì nuôi từ 6-7 con lợn nái, bán mỗi năm khoảng 150 con lợn giống, đồng thời nuôi khoảng 30 con lợn thịt, nhờ vậy thu nhập khoảng 250 triệu đồng/năm, cuộc sống cũng sung túc”, bà Dậy nói.
Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách
Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Kiên Giang Danh Phúc thông tin, đến nay đã có 100% xã thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số có đường giao thông nông thôn bằng bê tông, nhựa; hộ gia đình đồng bào Khmer sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 90%. Hằng năm, tỉnh có khoảng 4.600 người dân tộc thiểu số, phần lớn là đồng bào dân tộc Khmer tham gia học nghề tập trung ở các trình độ cao đẳng, trung cấp nghề và học nghề, qua đó giải quyết việc làm khoảng 3.500 lao động mỗi năm.
Tỉnh đề ra mục tiêu đến cuối năm 2025, thu nhập bình quân của đồng bào dân tộc thiểu số tăng trên 2 lần so với năm 2020 (khoảng 100 triệu đồng/người/năm); tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm từ 0,4% trở lên. Dự kiến tổng kinh phí thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi năm 2025 trên 175 tỷ đồng để hỗ trợ nhà ở, đất ở. Đồng thời nâng cấp, mở rộng công trình cấp nước sinh hoạt tập trung; đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi…
Để đạt các mục tiêu trên, tỉnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức triển khai thực hiện Chương trình về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, gắn với kiểm tra, theo dõi, giám sát việc triển khai thực hiện để có biện pháp chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; khắc phục kịp thời những hạn chế. Các huyện, thành phố tập trung đầu tư các dự án trọng tâm, trọng điểm, nhất là đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống của đồng bào vùng dân tộc thiểu số, gắn với lồng ghép các nguồn lực từ chương trình, dự án khác, ưu tiên cho xã, ấp đặc biệt khó khăn.
Tỉnh tăng cường thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn đồng bào Khmer thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo đúng định hướng, đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao hiệu quả, giá trị kinh tế; thực hiện tốt các chính sách, tạo điều kiện cho con em đồng bào dân tộc thiểu số ở các cấp học.
“Cùng với đó, các đơn vị, địa phương thường xuyên tiếp xúc, lắng nghe và nắm bắt tâm tư nguyện vọng chính đáng của đồng bào dân tộc thiểu số để phản ánh kịp thời lên cấp ủy đảng và chính quyền các cấp xem xét, giải quyết; tham gia phối hợp giữ vững, ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào dân tộc; thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc”, ông Danh Phúc nhấn mạnh.
Văn Sĩ