Không ai biết người Chứt làm được món cơm Pồi từ khi nào, chỉ biết rằng, giờ đây, cơm Pồi đã trở thành món ăn hàng ngày của họ, trở thành món quà để tiếp đón những người khách đến đây. Để rồi qua bao năm, món ăn ấy đi sâu vào tiềm thức của người dân bằng những câu ca dao thân thương, mộc mạc:
Trời mưa dác chẳn queng hồi.
Eng khôông lế cấy, ai tâm Pồi cho eng ăn.
Nghĩa là:
Trời mưa nước chảy quanh hồi.
Anh không lấy vợ, ai giã bồi cho anh ăn.
Cơm Pồi được chế biến rất công phu, nguyên liệu làm cơm Pồi gồm: Ngô hạt (sậu), lúa nếp nương, sắn củ và thỉnh thoảng có thêm đỗ, việc chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu là một việc tốn nhiều công sức và thời gian.
Đối với hạt ngô, người Chứt nấu nước sôi lên thì bắc xuống, cho ngô vào ngâm khoảng ba tiếng đông hồ, rồi vớt ra để ráo nước, bỏ vào cối giã, dần lấy bột, thấm nước lã, nhồi kỹ, đánh tơi ra. Lúa nếp nương xay bỏ bớt trấu, vò nước nóng, để ráo, giã gạo mịn thành bột. Sắn tươi sau khi đào vềthì rửa sạch, bóc lấy vỏ mài sắn, ép sắn, vắt kiệt nước.
Khi các nguyên liệu đã chuẩn bị xong, đồng bào trộn đều nguyên liệu với một ít nước lã, muối rồi cho vào ống tre, lấy lá chuối rừng nút chặt phần miệng để giữ nhiệt cho cơm mau chín. Để cho ống khỏi nứt, đồng bào dùng dao tước bỏ phần vỏ cứng bên ngoài của ống tre. Những ống tre đặt trên lửa than độ một giờ đồng hồ. Đến lúc có mùi thơm toả ra là cơm Pồi đã chín.
Cơm Pồi đựng trong ống tre có hương vị đặc biệt.Nó là sự kết hợp của mùi thơm lớp lụa tre rừng, vị ngọt bùi của ngô, sắn, nếp tạo nên hương vị đặc trưng của món ăn vùng cao. Khác với nhiều món cơm khác, cơm Pồi có độ dẻo cao và giữ được trong thời gian lâu.
Ngoài cách nấu trên, người Chứt còn nấu cơm Pồi bằng nhiều cách khác như: bỏ nguyên liệu vào "nghè hôông" (một dạng chõ) cùng với nước gọi là "nồi nân", lấy mo chuối vấn quanh miệng, bắc lên bếp đun lửa đồ chín thành "cơm Pồi" hay nấu như kiểu đồ xôi của người Việt. Tuy các cách nấu này nhanh hơn nhưng cơm Pồi lại không ngon, không mang được hương vị độc đáo riêng của mình.
Đồng bào Chứt thường ăn cơm Pồi với canh rau rừng, nấu với các loại cá, ốc hoặc thịt thú rừng chặt thành miếng vừa phải đem nướng hay ướp muối, cho vào ống tre vùi trong lửa than. Chính món cơm Pồi đã nuôi lớn những con người nơi đây. Để rồi, dù đi đâu, người Chứt vẫn mang theo những câu ca dao nói về cơm Pồi bên mình:
Trôông cho mau tếng mùa Pồi
Nhớ con ôốc tực tang ngồi trên vâm
Nghĩa là:
Trông cho mau đến mùa Pồi
Nhớ con ốc vặn đang ngồi trên mâm.
Và:
Mặt trời tá các tôộng ngồi
Ti nô cúng nhớ cơm Pồi, thâu lang.
Nghĩa là:
Mặt trời đã gác động ngồi
Đi đâu cũng nhớ cơm Pồi, rau khoai.
Trời mưa dác chẳn queng hồi.
Eng khôông lế cấy, ai tâm Pồi cho eng ăn.
Nghĩa là:
Trời mưa nước chảy quanh hồi.
Anh không lấy vợ, ai giã bồi cho anh ăn.
Cơm Pồi được chế biến rất công phu, nguyên liệu làm cơm Pồi gồm: Ngô hạt (sậu), lúa nếp nương, sắn củ và thỉnh thoảng có thêm đỗ, việc chuẩn bị đầy đủ nguyên liệu là một việc tốn nhiều công sức và thời gian.
Đối với hạt ngô, người Chứt nấu nước sôi lên thì bắc xuống, cho ngô vào ngâm khoảng ba tiếng đông hồ, rồi vớt ra để ráo nước, bỏ vào cối giã, dần lấy bột, thấm nước lã, nhồi kỹ, đánh tơi ra. Lúa nếp nương xay bỏ bớt trấu, vò nước nóng, để ráo, giã gạo mịn thành bột. Sắn tươi sau khi đào vềthì rửa sạch, bóc lấy vỏ mài sắn, ép sắn, vắt kiệt nước.
Khi các nguyên liệu đã chuẩn bị xong, đồng bào trộn đều nguyên liệu với một ít nước lã, muối rồi cho vào ống tre, lấy lá chuối rừng nút chặt phần miệng để giữ nhiệt cho cơm mau chín. Để cho ống khỏi nứt, đồng bào dùng dao tước bỏ phần vỏ cứng bên ngoài của ống tre. Những ống tre đặt trên lửa than độ một giờ đồng hồ. Đến lúc có mùi thơm toả ra là cơm Pồi đã chín.
Người Chứt có món cơm Pồi được chế biến rất công phu |
Cơm Pồi đựng trong ống tre có hương vị đặc biệt.Nó là sự kết hợp của mùi thơm lớp lụa tre rừng, vị ngọt bùi của ngô, sắn, nếp tạo nên hương vị đặc trưng của món ăn vùng cao. Khác với nhiều món cơm khác, cơm Pồi có độ dẻo cao và giữ được trong thời gian lâu.
Ngoài cách nấu trên, người Chứt còn nấu cơm Pồi bằng nhiều cách khác như: bỏ nguyên liệu vào "nghè hôông" (một dạng chõ) cùng với nước gọi là "nồi nân", lấy mo chuối vấn quanh miệng, bắc lên bếp đun lửa đồ chín thành "cơm Pồi" hay nấu như kiểu đồ xôi của người Việt. Tuy các cách nấu này nhanh hơn nhưng cơm Pồi lại không ngon, không mang được hương vị độc đáo riêng của mình.
Đồng bào Chứt thường ăn cơm Pồi với canh rau rừng, nấu với các loại cá, ốc hoặc thịt thú rừng chặt thành miếng vừa phải đem nướng hay ướp muối, cho vào ống tre vùi trong lửa than. Chính món cơm Pồi đã nuôi lớn những con người nơi đây. Để rồi, dù đi đâu, người Chứt vẫn mang theo những câu ca dao nói về cơm Pồi bên mình:
Trôông cho mau tếng mùa Pồi
Nhớ con ôốc tực tang ngồi trên vâm
Nghĩa là:
Trông cho mau đến mùa Pồi
Nhớ con ốc vặn đang ngồi trên mâm.
Và:
Mặt trời tá các tôộng ngồi
Ti nô cúng nhớ cơm Pồi, thâu lang.
Nghĩa là:
Mặt trời đã gác động ngồi
Đi đâu cũng nhớ cơm Pồi, rau khoai.
Theo doanhnghiepvn.vn