Tuy nhiên nó có những đặc trưng riêng của từng vùng. Ví dụ, tại các làng ở ven bờ Bạch hải, đàn ông mặc áo dệt từ lông thú. Áo được nhét vào trong quần như một số dân tộc tại các vùng khác phía Bắc nước Nga. Tại một số làng ở miền Nam, trang phục của nam giới còn có cả áo gilet. Tại vùng Altai, đàn ông thích trang trí chiếc mũ của mình bằng những dải ruy băng hay những bông hoa giả. Ở những tỉnh thuộc trung tâm phần châu Âu của Nga, người ta cũng trang trí cho chiếc mũ bằng lông của các loại len mềm hay những chiếc vòng.
Trang phục của nam giới và phụ nữ được làm từ lanh, vải gai, lông thú, vải pha len của nhà làm, cũng như các sản phẩm của nhà máy như lụa, lông thú, vải sợi bông, gấm. Trang phục truyền thống có những chức năng nhất định. Nó được chia ra làm trang phục lễ hội, nghi lễ, thường ngày và để làm việc. Trang phục lễ hội được may bằng những loại vải đắt tiền. Tất cả những phụ kiện của trang phục, chiếc khăn bịt đầu, giày được trang trí công phu. Trang phục thường ngày thường đơn giản, trang trí sơ sài và được may từ những loại vải rẻ tiền. Trang phục nghi lễ dành để may trong thời gian diễn ra nghi lễ.
Bên cạnh việc giữ gìn hình dáng truyền thống, bộ trang phục dân gian đã không ngừng biến đổi. Sự phát triển của công nghiệp và thời trang thành thị ảnh hưởng mạnh tới lối sống xưa ở nông thôn và đời sống của nông dân cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.
Ngày nay, những đường cắt, những họa tiết của bộ trang phục truyền thống là nguồn cảm hứng không bao giờ cạn cho những tìm tòi mẫu thiết kế mới. Nó là dành cho những người đam mê đích thực những sáng tạo dân gian.