Phần vỏ cây sau khi đập nát được cho xuống bể nước quấy đều. |
Giấy bản phục vụ chủ yếu cho đời sống tâm linh, thường được dùng vào dịp cúng lễ, nhất là dịp Tết hằng năm. Giấy bản có màu vàng nhạt, dai, thoang thoảng mùi thơm, do chính bàn tay của những người dân làm ra hoàn toàn thủ công, được lưu giữ truyền đời từ thế hệ này qua thế hệ khác như một nghề truyền thống của dân tộc. Ngoài dùng để cắt giấy tiền, vàng hương, giấy bản còn dùng để dán bàn thờ, trang trí trong nhà, dùng để viết chữ Nho, chữ Hán, bởi giấy dai và thấm mực, chữ viết trên giấy bản không phai.
Nguyên liệu chính để làm giấy bản là cây vỏ dưỡng (tiếng Tày là mạy sla), thường mọc tự nhiên trên đồi, núi cao. Cây dễ bóc vỏ nhất là vào khoảng các tháng 2, 3, 6, 7. Cây vỏ dưỡng được bóc lấy phần vỏ, phần vỏ này được tước vỏ đen một lần nữa, đem ngâm vôi trong khoảng 12 tiếng. Sau khi ngâm vôi, phần vỏ này được rửa qua nước rồi đun lên khoảng 3 tiếng, sau đó ngâm nước khoảng 2 ngày và đập cho thật nát rồi đem xuống bể khuấy đều sẽ được một loại nước màu vàng nhạt, đặc sánh, trong quá trình khuấy đem trộn cùng cây dây trơn lấy trên rừng nhằm làm cho giấy khi vào khuôn không bị dính, tạo thành một sản phẩm giấy ở dạng ướt. Giấy được ép nước và rải lên 2 mặt lò được đun lửa nhỏ đủ nhiệt độ khoảng gần 1 tiếng giấy sẽ khô, cuối cùng sẽ được một sản phẩm giấy bản có màu vàng nhạt, có độ mỏng vừa phải và dai. Không giống như các loại giấy khác, giấy bản để được rất lâu, nếu bảo quản tốt có thể để được vài chục năm.
Nghề làm giấy bản ở xóm Lũng Quang đã có từ rất lâu đời. Theo nhiều người dân Lũng Quang, lý do chính để bà con ở đây làm giấy bản vì địa phương thiếu nước, ít ruộng nên canh tác nông nghiệp khó khăn hơn so với nơi khác. Có một thời gian dài giấy bản Lũng Quang ít người dùng nên nhiều người bỏ nghề. Trước nguy cơ mai một nghề truyền thống, năm 2012 - 2013, từ dự án giảm nghèo của tỉnh, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội hỗ trợ xóm Lũng Quang bảo tồn và phát triển nghề truyền thống. Dự án hỗ trợ 70 triệu đồng cho các hộ nghèo tại xóm, trong đó, mỗi hộ được 10 triệu đồng để xây lò dán khô, bể múc làm giấy, từ đó các hộ trong xóm tiếp tục sản xuất giấy bản. Theo anh Chờ Lý Minh, Trưởng xóm Lũng Quang, hiện cả 15/15 hộ trong xóm đều làm giấy bản, chủ yếu vào dịp nông nhàn. Nghề làm giấy bản trở thành một trong những nghề đem lại thu nhập chính cho bà con ngoài trồng trọt và chăn nuôi.
Bà con tạo khuôn giấy bản từ nước vỏ cây đã được quấy đều. |
Trung bình một mẻ giấy bản tốn khoảng 30 - 40 kg nguyên liệu, làm ra được từ 400 - 500 tờ giấy bản; 1 tập giấy bản nhỏ từ 10 - 15 tờ có giá 20.000 - 30.000 đồng; 1 tập giấy to 20 - 30 tờ có giá từ 50.000 - 60.000 đồng. Bà con làm giấy bản mỗi năm cho thu nhập 30 - 40 triệu đồng/hộ. Bà Sầm Thị Ý làm giấy bản trên 20 năm cho biết: Trước đây khi giấy bản làm ra không được nhiều người mua nên gia đình tôi không làm một thời gian, chỉ trông chờ vào ruộng nương, cuộc sống rất khó khăn. Từ ngày được hỗ trợ làm bể và xây lò dán giấy, gia đình tôi tiếp tục làm giấy, cuộc sống bớt khó khăn hơn, tôi nuôi được hai con ăn học.
Những năm gần đây, để tiện lợi và không mất nhiều thời gian cho việc lấy nguyên liệu, người dân đem giống cây về trồng ở ven rẫy của gia đình. Trưởng xóm Chờ Lý Minh cho biết thêm: Đây là nghề truyền thống của dân tộc nên chúng tôi vẫn tiếp tục bảo tồn. Bên cạnh đó, chúng tôi đang nhân rộng làng nghề cho bà con trong xã cùng phát triển, bởi hiện nay thị trường rất chuộng loại giấy này. Nhờ có nghề truyền thống nên cuộc sống của người dân đã thay đổi rõ rệt, nhiều hộ có xe máy, ti vi, máy xay xát, nhiều hộ đã thoát nghèo.
Sản phẩm giấy bản sau khi hoàn thành có màu vàng nhạt và dai. |
Nghề làm giấy bản ở xóm Lũng Quang đã trải qua nhiều thăng trầm. Nhờ sự cố gắng, kiên trì của bà con trong xóm, đến nay nghề này đã thoát khỏi nguy cơ mai một, thị trường tiêu thụ không ngừng mở rộng trong tỉnh. Quan trọng hơn, người dân đã bảo tồn, phát triển nghề truyền thống mang nét đẹp văn hóa dân tộc.
Theo baocaobang.vn