Đại đức Danh Minh Tuấn tận tâm vì đạo, vì đời

Bà con xã Định Hòa, huyện Gò Quao (Kiên Giang) đều yêu quý Đại đức Danh Minh Tuấn, Trụ trì chùa Tà Mum bởi Đại đức đã gắn liền với những việc làm từ thiện, sẻ chia với những hoàn cảnh khó khăn ở địa phương.

Đam mê học tập

Xuất thân từ một gia đình nông dân Khmer nghèo có tới 9 anh chị em (ở ấp Hòa Út, xã Định Hòa, huyện Gò Quao), do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên năm 2000, Danh Minh Tuấn (sinh năm 1984) mới học xong lớp 9 phải đành gác lại chuyện học hành. Sau đó, Đại đức xuất gia vào chùa thọ giới để đền ơn báo hiếu tổ tông, cha mẹ theo tập tục của người Khmer.

IMG_7053.JPG
Đại đức Danh Minh Tuấn vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 6/2023. Ảnh: Lê Sen

Nhận thức được con đường tương lai phía trước của mình chính là sự nỗ lực học tập, lĩnh hội những kiến thức cơ bản về Phật học, văn hóa thì sẽ làm nên sự nghiệp, Danh Minh Tuấn vừa học Phật học và lớp bổ túc văn hóa. Sau nhiều năm miệt mài học tập, Danh Minh Tuấn đã học xong bậc Trung học bổ túc văn hóa. Sau đó, sư Tuấn đăng ký lên học Đại học Luật tại Trường Đại học Cần Thơ.

Thấy việc học bổ ích cho bản thân và còn giúp ít cho phật tử ở địa phương mỗi khi có việc cần liên quan pháp luật, sư Tuấn tiếp tục đăng ký học tiếp và đến năm 2022, nhà sư Khmer Danh Minh Tuấn tốt nghiệp Thạc sĩ luật Trường Đại học Cần Thơ.

Nói về việc học, sư Tuấn bộc bạch: Trước đây khi học về các mẩu chuyện về Bác Hồ, thấy những việc làm của Người thật vĩ đại tưởng chừng không thể học và làm theo. Thế nhưng, học tập và làm theo Bác không phải những điều gì cao xa. Đó là ra sức lao động, học tập hay giúp đỡ, yêu thương người khác cũng là một trong những việc làm thiết thực học và làm theo tấm gương đạo đức của Bác.

Sinh thời, lúc Bác mới ra đi tìm đường cứu nước, đến nước nào Bác đều tự học và biết tiếng nói, chữ viết nơi đó. Giờ đây, việc học tập đã có thầy chỉ dạy thì sao mình không ra sức học tập để cống hiến cho quê nhà, nhất là trong giới đồng bào phật tử. Bên cạnh đó, các việc làm khác cũng khởi nguồn từ cái tâm, việc làm cụ thể thì đó cũng là học và làm theo Bác.

Nhờ tính cần cù lao động, chăm chỉ học tập, chịu khó rèn luyện, năm 2010, Đại đức Danh Minh Tuấn được Ban quản trị chùa đề bạt làm trụ trì chùa Tà Mum đến nay.

Chăm lo cho người nghèo

Để hỗ trợ các hộ dân khó khăn, thiếu ăn, Đại đức đã vận động các nhà hảo tâm trao tặng hàng tấn gạo, quần áo vào dịp Tết Nguyên đán, ngày lễ của Phật giáo cũng như các ngày lễ lớn trong năm. Mới đây, Đại đức đã vận động 60 triệu đồng để thực hiện mô hình "Thắp sáng đường quê" trên con đường Cà Nhung - Bần Bé giúp bà con đi lại thuận tiện trong đêm.

IMG_7054.JPG
Đại đức Danh Minh Tuấn tặng quà cho bà con nghèo ở địa phương. Ảnh: Lê Sen

Ông Hồ Văn Thiện, Trưởng Khối vận - Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã Định Hòa cho biết, không chỉ làm việc thiện, Đại đức Danh Minh Tuấn còn là người có uy tín trong đồng bào dân tộc; là Phó Chủ tịch Hội đoàn kết sư sãi yêu nước huyện Gò Quao. Đại đức đã tích cực tuyên truyền đồng bào phật tử và nhân dân cùng tham gia xây dựng nông thôn mới, vận động làm đường giao thông nông thôn; chấp hành tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… Những việc làm của Đại đức Danh Minh Tuấn tuy rất bình dị nhưng tạo được sức lan tỏa lớn trong cộng đồng dân cư.

Theo ông Danh Sanh, Bí thư Chi bộ, Trưởng ấp Hòa Hớn, xã Định Hòa, trước đây, trên địa bàn ấp còn nhiều hộ nghèo. Thông qua những dịp lễ, tết, khi có đông bà con phật tử đến cúng viếng chùa, Đại đức đã thường xuyên khuyên bảo phật tử thực hành tiết kiệm, siêng năng lao động sản xuất để phát triển kinh tế gia đình. Việc làm này giúp đồng bào dân tộc Khmer thay đổi nhận thức. Nhiều gia đình trước đây nghèo khó do cờ bạc, rượu chè, con cái thất học… đã vươn lên thành hộ khá, giàu. Đến nay, toàn ấp Hòa Hớn chỉ còn 18 hộ nghèo.

Ông Võ Minh Mạnh, Chủ tịch UBND xã Định Hòa (huyện Gò Quao) cho biết, từ khi được đề bạt làm trụ trì chùa Tà Mum, những việc làm của Đại đức Danh Minh Tuấn đã góp phần không nhỏ vào việc chăm lo an sinh xã hội tại địa phương. Đại đức là tấm gương sáng, tận tâm vì đạo, vì đời; đã được Huyện ủy tặng Giấy khen đạt thành tích xuất sắc trong thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và nhiều Bằng khen, Giấy khen khác của huyện, tỉnh về công tác xã hội từ thiện. Đặc biệt, tháng 6/2023, Đại đức Danh Minh Tuấn vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam./.

Lê Sen

(̣Báo ảnh Dân tộc và Miền núi)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm