Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Kiên Giang, từ nay đến năm 2022, tỉnh sẽ đầu tư phát triển nghề nuôi biển với hai ngành nghề chính là nuôi cá lồng bè và nuôi nhuyễn thể hai mảnh vỏ theo hướng an toàn, hiệu quả. Từ đó, góp phần ổn định tăng trưởng kinh tế nông nghiệp trong điều kiện dịch COVID-19.
Theo đó, trong những tháng còn lại của năm, tỉnh sẽ phát triển nuôi cá lồng bè trên biển 5.500 lồng với sản lượng dự kiến 5.200 tấn. Nuôi nhuyễn thể với diện tích 25.250 ha và dự kiến sản lượng thu hoạch 71.700 tấn; 150 ha ngọc trai với sản lượng 100.000 viên.
Năm 2022, tỉnh sẽ phát triển nuôi cá lồng bè trên biển với 6.000 lồng, dự kiến sản lượng thu hoạch 9.300 tấn. Nuôi nhuyễn thể trên diện tích 25.560 ha, dự kiến sản lượng thu hoạch 74.880 tấn và 250 ha ngọc trai, sản lượng 150.000 viên.
Về nuôi cá lồng bè trên biển, tỉnh Kiên Giang sẽ phát triển theo hướng tập trung, liên kết sản xuất bền vững tại các xã: Hòn Nghệ (Kiên Lương), Lại Sơn (Kiên Hải), Tiên Hải (thành phố Hà Tiên) và Gành Dầu (thành phố Phú Quốc) với các đối tượng như: cá bóp, cá mú, cá chim, cá hồng mỹ, cá chim vây vàng, cá chẽm…
Tỉnh cũng sẽ nuôi nhuyễn thể tập trung ở các vùng bãi triều dọc theo bờ biển ở các huyện: Kiên Lương, Hòn Đất, An Biên và An Minh, với các đối tượng nuôi như: hến biển, sò huyết, sò lông, vẹm xanh, nghêu lụa. Còn nuôi ngọc trai ở Phú Quốc.
Để thực hiện đạt mục tiêu, kế hoạch này, các ngành chức năng phối hợp với các huyện, thành phố có nghề nuôi biển tập huấn, tuyên truyền, phổ biến cho người dân thực hiện các quy định về cấp phép nghề nuôi biển, cấp mã số nhận diện cơ sở nuôi lồng bè theo quy định. Ngành chức năng cũng tiếp nhận, xử lý các hồ sơ xin chủ trương cấp phép nghề nuôi biển; khảo sát thực địa, giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản.
Ngành chức năng tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật nuôi cá lồng bè, nuôi nhuyễn thể hai mảnh vỏ cho tổ chức và hộ dân nuôi biển; xây dựng và hoàn thiện mạng lưới quan trắc, cảnh báo môi trường, phòng chống dịch bệnh trong vùng nuôi biển đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Cùng với đó, các ngành chức năng hướng dẫn nuôi cá lồng bè theo mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật về vật liệu mới như: kết cấu lồng bè bằng nhựa, lồng lưới chịu lực; sử dụng thiết bị máy móc phụ trợ, chiếu sáng trên bè bằng năng lượng mặt trời; liên kết chuỗi sản xuất, nuôi các đối tượng có giá trị kinh tế cao, sử dụng thức ăn công nghiệp thay thế cho thức ăn cá mồi, cá tạp…
Ngoài ra, tăng cường kiểm dịch giống thủy sản nuôi biển; tổ chức giám sát chủ động dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trên thủy sản nuôi biển. Điều này nhằm kịp thời phát hiện, hướng dẫn người dân các biện pháp phòng trị, xử lý dập tắt ổ dịch. Đồng thời, nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân, biện pháp phòng tránh một số hiện tượng gây hại cá nuôi lồng bè như: sinh vật “lạ”, tảo “nở hoa”…
Lê Huy Hải