Đối với người bản địa Tây Nguyên, văn hóa truyền thống dân tộc chính là điều quý báu nhất mà họ có được và muốn gìn giữ đến tận mai sau. Đàn ông, con trai Tây Nguyên phải biết đan lát, săn bắt, đánh cồng chiêng; đàn bà, con gái phải biết dệt vải, múa xoang, nội trợ. Theo thời gian, nhiều nét văn hóa bản sắc dân tộc tại đây dần mai một nhưng riêng nghề dệt thổ cẩm vẫn luôn được phụ nữ Bahnar tại Gia Lai gìn giữ như là một bảo chứng cho phái đẹp dân tộc mình.
Người Bahnar vùng phía Nam tỉnh Gia Lai còn lưu giữ nhiều văn hóa truyền thống. Làng Pơ Nang, xã Tú An, thị xã An Khê là một trong ba làng của xã Tú An, thị xã An Khê, nơi còn nhiều phụ nữ biết dệt vải thổ cẩm truyền thống nhất. Họ cùng nhau thành lập Tổ dệt thổ cẩm của làng, dựa trên nền tảng nghề sẵn có của các bà, các mẹ truyền dạy.
Chị Hồ Thị Viên, Tổ trưởng Tổ dệt truyền thống xã Tú An cho biết: Làng nghề đã hình thành, tay nghề của nhiều người đã thành thạo. Tuy nhiên, vấn đề nan giải là việc tìm đầu ra cho sản phẩm, bởi dệt thủ công nên giá sản phẩm cao hơn nhiều so với các loại vải công nghiệp.
Cái khó bó cái khôn, các chị không dệt nhiều quần áo, chăn nữa vì giá cao mà chuyển hướng sang làm các sản phẩm từ vải dệt truyền thống và các dải hoa văn truyền thống đặc sắc của dân tộc mình như bộ trang sức bông tai, dây cột đầu, vòng cổ, vòng tay, túi đựng điện thoại, móc khóa, khăn trải bàn, tấm lót ly ấm uống nước, tấm trang trí trên tường, khăn quàng cổ, túi đựng laptop, ipad… Đây là các sản phẩm thông dụng để du khách mua làm quà lưu niệm vì giá cả hợp lý.
Theo nghệ nhân Đinh Thị Puốt, 80 tuổi, làng dệt Pơ Nang, để dệt một tấm vải liên tục mất khoảng 1 tháng. Tấm vải đó được cắt ra để may, ráp hay trang trí thành váy, áo, khố, mũ, túi theo kiểu truyền thống. Đấy là cả quá trình rất công phu, tâm huyết. Bà thường động viên các chị cố gắng học hỏi, trau dồi kiến thức để gìn giữ văn hóa dân tộc, giữ được nét riêng của phụ nữ Bahnar.
Bà Puốt cho biết thêm, dụng cụ dệt thổ cẩm được ghép lại từ nhiều bộ phận rời nhau, chỉ khi ngồi duỗi chân, đeo dây chằng vào phần lưng mới giữ được khung dệt. Khung dệt có 2 loại ngắn, dài để cho người lớn và trẻ em. Một sản phẩm như bộ quần áo bà đang mặc, vải được dệt liên tục trong vòng 3 tuần, sau đó đưa về cắt may, ráp thành trang phục, hoàn thành sản phẩm. Nét thổ cẩm trên bộ trang phục hay vật dụng gia đình sử dụng thể hiện sự khéo léo, tỉ mỉ, tinh tế của người phụ nữ trong gia đình. Các họa tiết thường gắn liền với những hình tượng sinh hoạt cộng đồng người Bahnar gắn liền với cuộc sống thường ngày như cây lá, hoa, con vật, đồ dùng. Bộ trang phục đẹp, thể hiện người phụ nữ tinh tế. Đó cũng là tiêu chí chọn người phụ nữ gia đình của đàn ông Bahnar.
Thành lập từ 2017, Câu lạc bộ dệt của xã Tú An lúc đầu chỉ có 10 thành viên, giờ có hơn 50 chị với nhiều thế hệ, nhiều tuổi nhất là bà Đinh Thị Puốt (80 tuổi), ít tuổi nhất là những em học sinh Trung học Cơ sở. Họ cùng chung tâm huyết gìn giữ văn hóa dân tộc. Qua quá trình đào tạo, chăm chỉ học hỏi, luyện tập, tay nghề các thành viên dần dần được nâng lên, sản phẩm làm ra đẹp, đa dạng hơn. Ngoài việc phục vụ cho gia đình, các sản phẩm của Câu lạc bộ đã được bày bán tại một số sự kiện du lịch để quảng bá sản phẩm dệt thổ cẩm địa phương. Những tấm thổ cẩm của làng Pơ Nang được các bàn tay người thợ có kinh nghiệm lâu năm kết hợp hài hòa giữa họa tiết, hoa văn hiện đại mang phong cách rất riêng của làng nghề truyền thống nơi đây.
Em Hồ Thị Diễm Như, 13 tuổi, làng dệt Pơ Nang, cho biết: Em biết dệt từ khi lên 10 tuổi, lúc ấy, đeo khung dệt còn rất khó khăn bởi cơ thể nhỏ xíu của mình. Em thích được ngồi cùng bà, cùng mẹ trong ngôi nhà Rông của làng để học đường dệt của họ và nghe họ kể về văn hóa, lịch sử buôn làng. Em là lớp kế cận để bảo tồn văn hóa dân tộc. Sau này, em sẽ là thế hệ truyền dạy để nghề dệt mãi được lưu truyền.
Ngắm nhìn những bộ trang phục của phụ nữ làng Pơ Nang, mọi người sẽ cảm nhận được văn hóa dân tộc Bahnar đang vẫn hàng ngày được gìn giữ. Nó được kết hợp, phát huy những tinh hoa vốn có làm tôn lên vẻ đẹp rất riêng của người con gái Bahnar phía Bắc Tây Nguyên.
Theo ông Trần Thanh Cảnh, Chủ tịch UBND xã Tú An, thị xã An Khê, sắp tới, chính quyền địa phương có hướng đưa dệt thổ cẩm xã Tú An thành sản phẩm chương trình OCOP - mỗi xã một sản phẩm để đẩy mạnh đầu ra cho các mặt hàng dệt truyền thống của địa phương. Việc này vừa gìn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, lại vừa tăng thêm thu nhập cho bà con, hy vọng sẽ mang đến cho người dân một cuộc sống sung túc.
Thạc sĩ Hoàng Thanh Hương, Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin công tác tuyên giáo, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Gia Lai đang thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học “Nghiên cứu, sưu tầm và bảo tồn giá trị trang phục truyền thống các dân tộc tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Gia Lai”. Bà Hương cho hay, để bảo tồn được nghề dệt thổ cẩm tại Tây Nguyên nói chung và Gia Lai nói riêng, cần nâng cao nhận thức về nghề cho thế hệ trẻ. Đặc biệt, Hội Liên hiệp Phụ nữ cần tập trung tuyên truyền thay đổi nếp nghĩ cách làm của hội viên, động viên chị em thành lập các câu lạc bộ, tổ dệt truyền thống để vừa bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống dân tộc, vừa góp phần cải thiện đời sống kinh tế. Cùng với đó là sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị địa phương trong việc đảm bảo đầu ra cho các sản phẩm truyền thống.
Hồng Điệp
Tên tự gọi: Ba Na.
Tên gọi khác: Bơ Nâm, Roh, Kon Kđe, Ala Kông, Kpang Kông...
Nhóm địa phương: Rơ Ngao, Rơ Lơng (hay Y Lăng), Tơ Lô, Gơ Lar Krem.
Dân số: 227.716 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơ Me (ngữ hệ Nam Á).
Lịch sử: Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao nguyên miền Trung nước ta.
Hoạt động sản xuất: Người Ba Na canh tác lúa trên ruộng khô và rẫy. Cái cuốc là công cụ chủ yếu trong canh tác nông nghiệp ở tộc người này. Với ruộng khô thì việc thâm canh không bỏ hóa là đặc điểm khác với rẫy. Ruộng khô thường ở vùng ven sông suối. Từ đầu thế kỷ XX, việc làm ruộng nước bằng cày đã ngày càng phát triển ở nhiều nơi. Vườn chuyên canh và vườn đa canh cũng xuất hiện từ lâu. Công việc chăn nuôi và các nghề thủ công như: đan, dệt, gốm, rèn còn chưa phát triển.
Ở: Ðịa bàn cư trú của người Ba Na trải rộng trên các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và miền Tây của Bình Ðịnh, Phú Yên và Khánh Hòa. Họ cư trú trên nhà sàn, cửa ra vào mở về phía mái, trên hai đầu đốc đều có trang trí hình sừng, ở giữa làng được xây cất một ngôi nhà công cộng - nhà làng, nhà rông với hai mái vồng và cao vút. Ðó là nhà khách của làng, nơi diễn ra mọi sinh hoạt chung của cộng đồng làng như giáo dục thanh thiếu niên, tổ chức nghi lễ, hội làng, xử án...
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là cái gùi cõng trên lưng, cho nam, nữ và cho mọi lứa tuổi. Gùi nhiều kích cỡ to nhỏ và nhiều chủng loại, đan mau và thưa nhưng đều theo một mô típ cổ truyền.
Quan hệ xã hội: Làng là đơn vị xã hội hoàn chỉnh và duy nhất. Tàn dư mẫu hệ vẫn thể hiện rõ trong quan hệ gia đình, tộc họ và trong hôn nhân. Sự tan rã của chế độ mẫu hệ ở đây đã nâng cao địa vị của nam giới nhưng phía mẹ vẫn gần gũi hơn. Sau hôn nhân còn phổ biến tập quán cư trú phía nhà vợ. Xã hội có người giàu, người nghèo và tôi tớ.
Theo cema.gov.vn