Giữa “vòng xoáy” lạm phát toàn cầu, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 6 tháng đầu năm của Việt Nam chỉ tăng 2,44% so với cùng kỳ. Đây là kết quả của những nỗ lực kiểm soát lạm phát của Việt Nam. Tuy nhiên, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương nhận định, việc kiểm soát được mục tiêu lạm phát 4% mà Quốc hội đề ra trong năm nay vẫn là một thách thức rất lớn.
Áp lực lạm phát
Vụ Thống kê giá, Tổng cục Thống kê cho biết, bình quân 6 tháng đầu năm 2022, CPI tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước (cao hơn mức tăng 1,47% của năm 2021), đây là thành công trong kiểm soát lạm phát của Việt Nam trước bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với tình trạng lạm phát gia tăng ở hầu khắp các quốc gia.
Cụ thể là lạm phát tại nhiều nước đã đạt mức kỷ lục trong tháng 5/2022, lạm phát của Mỹ tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước, cao nhất kể từ năm 1981, lạm phát của khu vực đồng Euro tăng 8,1%, gấp 4 lần lạm phát mục tiêu 2% của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Tại châu Á, bình quân 5 tháng đầu năm nay, lạm phát của Thái Lan tăng 5,2%; Hàn Quốc tăng 4,3%; Indonesia tăng 2,8%; Malaysia tăng 2,4% tương đương với Việt Nam; Nhật Bản và Trung Quốc cùng tăng 1,5%.
Theo bà Nguyễn Thu Oanh, Vụ trưởng Vụ Thống kê giá, Tổng cục Thống kê, lạm phát của Việt Nam trong 6 tháng đầu năm nay không tăng cao như một số quốc gia khác trên thế giới chủ yếu do các nguyên nhân sau: danh mục hàng hóa và dịch vụ đại diện tính CPI của các quốc gia khác nhau do phụ thuộc vào tập quán tiêu dùng; đồng thời, cơ cấu chi tiêu dùng của hộ gia đình cũng không đồng nhất.
Dẫn chứng như Mỹ và châu Âu chi tiêu dùng cho các nhóm nhà ở, điện, nước, khí đốt, giao thông, văn hóa, giải trí chiếm tỷ trọng lớn trong khi Việt Nam chủ yếu chi tiêu dùng cho lương thực, thực phẩm, chiếm tỷ trọng 27,68%.
Về cơ bản, các nguyên nhân khiến lạm phát của Việt Nam thấp hơn các nước phương Tây cũng tương tự như các chuyên gia đã lý giải vì sao nhiều nền kinh tế châu Á vẫn nằm ngoài bão lạm phát: “Các nhà hoạch định chính sách chỉ ra rằng giá cả tăng là hiện tượng toàn cầu. Đúng là chi phí nhiên liệu, phân bón, ngũ cốc và nhiều mặt hàng khác đang tăng ở khắp nơi sau khi khủng hoảng Nga-Ukraina xảy ra, tuy nhiên, không phải ở đâu lạm phát cũng giống nhau”, bà Nguyễn Thị Hương nhấn mạnh.
Các nền kinh tế Đông Nam Á có lạm phát thấp hơn 4% chủ yếu do: thứ nhất là giá thịt lợn giảm so với cùng kỳ năm trước sau khi dịch tả lợn châu Phi được kiểm soát. Thứ hai là nhiều nơi ở châu Á chuyển sang sống chung với dịch chậm và miễn cưỡng hơn so với phương Tây. Nhiều nước việc đi lại và di chuyển chỉ thực sự trở lại bình thường từ tháng 4 và tháng 5 năm 2022. Thứ ba là người dân Đông Á không giống như các khu vực khác trên thế giới, họ ăn nhiều gạo hơn lúa mỳ trong khi đó giá gạo tăng thấp hơn giá lúa mỳ. Bên cạnh đó, một số quốc gia ở châu Á ban hành các chính sách cấm xuất khẩu một số mặt hàng để đảm bảo nguồn cung ổn định giá trong nước.
Bà Nguyễn Thu Oanh cho rằng, Việt Nam là quốc gia có nguồn cung ứng các mặt hàng lương thực, thực phẩm dồi đào, bên cạnh việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân còn xuất khẩu ra thế giới nên giá cả khá ổn định. Cụ thể, 6 tháng đầu năm, giá các mặt hàng thực phẩm giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI giảm 0,08 điểm phần trăm; trong đó, giá thịt lợn giảm 20,12%; giá nội tạng động vật giảm 9,52%; giá thịt chế biến giảm 3,89%.
Giá thịt lợn giảm sâu chủ yếu do Việt Nam đã kiểm soát được dịch tả lợn châu Phi nên chủ động trong phòng ngừa dịch khiến nguồn cung đảm bảo, trong khi giá thức ăn chăn nuôi đang tăng cao làm cho các hộ chăn nuôi phải bán sớm cắt lỗ.
Bên cạnh đó, giá dịch vụ giáo dục giảm 3,56% do một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương miễn giảm học phí từ học kỳ I năm học 2021-2022 do ảnh hưởng của dịch COVID-19, làm CPI chung giảm 0,19 điểm phần trăm.
Đặc biệt, để chủ động ứng phó với những thách thức trước áp lực lạm phát gia tăng, trong thời gian qua Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn giá, hạn chế những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
Các chính sách, giải pháp tài chính tiền tệ được ban hành kịp thời đã giảm áp lực đáng kể lên mặt bằng giá như: ổn định lãi suất cho vay ở mức thấp, giảm thuế giá trị gia tăng với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ từ 10% xuống còn 8% từ ngày 01/02/2022; giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay từ ngày 01/01 đến hết 31/12/2022; giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí trong 6 tháng đầu năm 2022.
Cùng với đó, công tác điều hành giá xăng dầu theo sát diễn biến giá thế giới, nguồn cung xăng dầu được chỉ đạo khắc phục kịp thời. Các địa phương tăng cường quản lý giá trên địa bàn, nhiều doanh nghiệp tích cực tham gia chương trình bình ổn giá.
“Nhờ vậy, mà chúng ta đã kiểm soát được lạm phát 6 tháng đầu năm ở mức 2,44%”, Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương cho biết.
Cần các chính sách để kiểm soát lạm phát
Tổng cục Thống kê nhận định, trong thời gian tới, diễn biến giá cả hàng hóa, nguyên nhiên vật liệu trên thế giới vẫn tiếp tục tăng trong bối cảnh khủng khoảng Nga - Ukraine còn phức tạp gây gián đoạn chuỗi cung ứng, đặc biệt là giá xăng dầu tạo áp lực lớn đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp và tiêu dùng của người dân.
Cùng với tác động của các gói hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng, kinh tế Việt Nam có khả năng phục hồi mạnh hơn trong các tháng còn lại của năm, cùng với nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ tăng sẽ đẩy giá cả hàng hóa lên cao. Do đó, áp lực lạm phát những tháng cuối năm 2022 là rất lớn.
Tổng cục Thống kê chỉ ra một số yếu tố có thể khiến CPI tăng cao trong các tháng cuối năm; đó là, giá nguyên nhiên vật liệu trên thế giới đang ở mức cao mà Việt Nam là nước phải nhập khẩu khá nhiều nguyên liệu phục vụ sản xuất nên việc nhập khẩu nguyên liệu với mức giá cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí, giá thành, tạo áp lực cho sản xuất của doanh nghiệp và từ đó đẩy giá hàng hóa tiêu dùng trong nước tăng lên, tạo áp lực cho lạm phát toàn nền kinh tế.
Đặc biệt là giá xăng dầu có nhiều biến động sẽ tác động đến mặt bằng giá nhiều hàng hóa quan trọng như: xăng, vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng, vận tải. Mà hiện nay giá xăng dầu thành phẩm trên thị trường Singapore chiếm khoảng 70% giá cơ sở đối với xăng và khoảng 80% giá cơ sở đối với dầu cho nên việc giá thế giới tăng cao có tác động rất mạnh tới giá trong nước.
Theo tính toán của Tổng cục Thống kê thì giá xăng dầu cứ tăng 10% sẽ tác động làm CPI tăng 0,36 điểm phần trăm. Cùng với đó, giá lương thực, thực phẩm có khả năng tăng trong các tháng cuối năm, nhất là khi dịch COVID-19 đã được kiểm soát và nhu cầu tiêu dùng của người dân đang trở lại như thời gian trước khi đại dịch diễn ra.
Mặc dù, Việt Nam có lợi thế là chủ động được nguồn lương thực, thực phẩm ở trong nước, tuy nhiên sẽ khó tránh khỏi ảnh hưởng khi thế giới đang có nguy cơ phải đối mặt với khủng hoảng lương thực toàn cầu.
Đặc biệt, nhóm hàng lương thực, thực phẩm có quyền số (là cơ cấu chi tiêu các nhóm mặt hàng trong tổng chi tiêu của hộ gia đình được tổng hợp từ kết quả điều tra mức sống dân cư và dùng cố định khoảng 5 năm) khá cao, gần 28% trong rổ hàng hóa tính CPI, do đó biến động giá của nhóm hàng này sẽ có tác động mạnh tới lạm phát của nền kinh tế. Đặc biệt, trong đó nhóm hàng thịt lợn đang có xu hướng tăng giá trở lại, chỉ số giá nhóm thịt lợn tháng 6/2022 tăng 0,87% so với tháng trước và kéo theo giá các hàng hóa chế biến từ thịt lợn cũng tăng theo.
Kinh tế trong nước đang trong giai đoạn phục hồi rõ nét và cùng với các gói hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có khả năng sẽ còn phục hồi mạnh mẽ hơn trong 6 tháng cuối năm, khi đó cầu tiêu dùng hàng hóa trong dân sẽ tăng mạnh, các hoạt động dịch vụ cũng sẽ tăng cao như các hoạt động du lịch, vui chơi, giải trí, ăn uống ngoài gia đình, từ đó đẩy giá cả hàng hóa và dịch vụ lên cao và tạo áp lực lên lạm phát.
Để có thể kiểm soát được lạm phát trong năm nay, Tổng cục Thống kê đề xuất, đối với mặt hàng xăng dầu, Chính phủ cần phải đảm bảo nguồn cung xăng dầu trong nước, không để xảy ra gián đoạn nguồn cung; đồng thời, nghiên cứu các giải pháp giảm thuế để chia sẻ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp trong giai đoạn giá xăng dầu tăng cao.
Cùng với đó, các bộ, ngành, địa phương phải chuẩn bị đầy đủ nguồn hàng nhằm đảm bảo đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu của người dân đối với các mặt hàng lương thực, thực phẩm, hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng thiết yếu.
Đối với mặt hàng thịt lợn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần chú trọng bảo đảm nguồn cung, nhất là giai đoạn cuối năm. Bộ Công Thương và các địa phương phải tăng cường kiểm soát các khâu trung gian, lưu thông trên thị trường nhằm ổn định giá của mặt hàng này.
Ngoài ra, cần nghiên cứu, đánh giá kỹ tác động của việc điều chỉnh giá dịch vụ giáo dục theo Nghị định 81 và giá dịch vụ y tế theo lộ trình để điều chỉnh cho phù hợp.
“Không nên điều chỉnh giá nhiều mặt hàng do Nhà nước quản lý vào cùng một tháng và khi điều chỉnh học phí cần điều chỉnh giãn ra giữa các địa phương để tránh tạo áp lực cao lên lạm phát”, bà Nguyễn Thu Oanh cho biết.
Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiềm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, đặc biệt cần đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời vốn tín dụng cho nền kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát.
Thúy Hiền