Bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật múa Rom Vong của người Khmer

Bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật múa Rom Vong của người Khmer

Múa Rom Vong là sản phẩm tinh thần độc đáo không thể thiếu trong các dịp lễ, tết, sinh hoạt văn hóa của đồng bào Khmer. Nó không chỉ mang tính chất thiêng liêng, mà còn là sinh hoạt tinh thần sau những giờ lao động mệt nhọc. Tuy nhiên, quá trình giao lưu, tiếp biến kinh tế - văn hóa – xã hội của người Khmer hiện nay diễn ra khá mạnh dẫn đến sự mai một của văn hóa truyền thống dân tộc Khmer, trong đó có Nghệ thuật trình diễn dân gian Múa Rom Vong.

Múa Rom Vong cần được bảo tồn

Người Khmer Nam Bộ nói chung và tại Sóc Trăng nói riêng vốn có nền văn hóa nghệ thuật rất độc đáo, đa dạng đã phát triển khá lâu đời, trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống xã hội và luôn được bảo tồn, phát huy. Người Khmer có rất nhiều điệu múa như Rom Vong (múa vòng tròn), Lăm Leo, Saravan... gọi chung là múa dân gian.

Theo Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sóc Trăng Sơn Thanh Liêm, hầu hết các điệu múa truyền thống đều có tính vui nhộn, được thể hiện qua sự phối hợp nhịp nhàng, sinh động của các động tác tay chân theo từng điệu nhạc. Các điệu múa dân gian của đồng bào Khmer có thể được trình diễn theo vòng tròn hoặc thành hàng và không giới hạn số người tham gia... Nghệ thuật múa dân gian độc đáo này đã hình thành và phát triển khá lâu đời, trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống xã hội của cộng đồng người Khmer, luôn được bảo tồn và phát triển. Năm 2020, múa Rom Vong của người Khmer tỉnh Sóc Trăng được đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia. Đây không chỉ là niềm tự hào của cộng đồng người Khmer tỉnh Sóc Trăng mà còn là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa trong việc gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị vốn có của di sản.

Hiện nay, các phum, sóc của người Khmer Sóc Trăng vẫn vang vọng tiếng nhạc Ngũ Âm, vẫn nồng nàn điệu múa Rom Vong. Cứ vào những dịp lễ hội truyền thống của dân tộc hay nghi thức mừng nhà mới, đám cưới, Tết Chôl Chnăm Thmây..., người Khmer thường tổ chức múa Rom Vong, tạo nên không khí giao lưu phấn khởi, đoàn kết trong cộng đồng.

Bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật múa Rom Vong của người Khmer ảnh 1Các cô gái Khmer duyên dáng trong điệu múa rom vong.Nguồn: scov.gov.vn

Dù đã trải qua hàng trăm năm, nhưng điệu múa Rom Vong uyển chuyển vẫn được nhiều người Khmer yêu thích. Người ta có thể tổ chức múa ở mọi nơi từ nơi sân khấu rực rỡ, sân chùa hay sân nhà vào những dịp tết, lễ hội. Điệu múa Rom Vong vừa dịu dàng, vừa có nét vui nhộn, được thể hiện qua sự phối hợp các động tác tay, chân kết hợp toàn thân uyển chuyển, nhịp nhàng, sinh động nên thu hút mọi người tham gia mỗi âm nhạc nổi lên.

Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, các bạn trẻ hiện nay đang có xu hướng “múa” theo các vũ điệu hiện đại của nước ngoài. Đây là điều đáng lo ngại nhất trong quá trình bảo tồn các loại hình nghệ thuật truyền thống của người Khmer. Bên cạnh đó, quá trình người Khmer tiếp nhận văn hóa dân tộc Kinh đang diễn ra khá mạnh, nhất là trong hội nhập kinh tế, nâng cao đời sống vật chất. Điều này đã và đang kéo theo sự mai một của văn hóa truyền thống dân tộc Khmer, trong đó có loại hình nghệ thuật múa dân gian.

Đa dạng các hình thức bảo tồn

Trên phương diện quản lý Nhà nước, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc Trăng Huỳnh Thị Diễm Ngọc cho biết, tỉnh tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, nâng cao hiệu quả chỉ đạo, tổ chức thực hiện của chính quyền các cấp, đoàn thể, tổ chức, cá nhân đối với công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Nghệ thuật Múa Rom Vong. Đồng thời, tỉnh đổi mới, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa Nghệ thuật Múa Rom Vong. Các sở, ban ngành và chính quyền địa phương nơi có di sản tăng cường phối hợp thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ, phát huy giá trị di sản.

Tỉnh khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân tham gia hoặc tài trợ cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa; tôn vinh những nghệ nhân, các tổ chức, cá nhân có công trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.

Bên cạnh nguồn ngân sách nhà nước cấp cho công tác bảo vệ, phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, tỉnh còn đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ, đầu tư kinh phí, thiết bị, kỹ thuật... cho công tác bảo tồn và phát huy giá trị Nghệ thuật Múa Rom Vong.

Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sóc Trăng khẳng định, chủ trương của ngành luôn tích cực hỗ trợ các chùa Khmer trong tỉnh xây dựng thành các tụ điểm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng cộng đồng, nhằm góp phần gìn giữ, bảo tồn các loại hình di sản văn hóa truyền thống đặc trưng và phát hiện những tài năng mới cho văn hóa, nghệ thuật dân tộc.

Ở góc độ chuyên môn, tỉnh nghiên cứu, đề xuất chính sách đãi ngộ đối với các nghệ nhân nắm giữ và truyền dạy các điệu Múa Rom Vong trong cộng đồng; tiếp tục tuyên truyền giúp cộng đồng nâng cao nhận thức về giá trị của di sản, qua đó nêu cao ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ di sản, môi trường, không gian, cảnh quan tự nhiên, những phong tục tập quán... gắn với sự tồn tại và phát triển của di sản.

Cùng đó, tỉnh khảo sát, lựa chọn địa điểm tổ chức truyền dạy Múa Rom Vong. Mỗi huyện, thị xã, thành phố xây dựng hai câu lạc bộ, tùy theo tình hình thực tế của địa phương; tổ chức truyền dạy Múa Rom Vong tại cộng đồng. Đồng thời, hỗ trợ huyện, thị, thành phố xây dựng mô hình điểm truyền dạy Múa Rom Vong nhằm nhân rộng mô hình cho các địa phương khác trong huyện học tập.

Bảo tồn, phát huy giá trị nghệ thuật múa Rom Vong của người Khmer ảnh 2Nam nữ dân tộc Khmer hòa mình vào điệu múa rom vong tập thể rất mềm mại và duyên dáng. Nguồn: scov.gov.vn

Sóc Trăng còn tổ chức bảo tồn theo hướng “bảo tồn sống” tại cộng đồng. Cộng đồng dân cư là chủ thể của di sản trực tiếp bảo tồn theo truyền thống và có thể tạo thành sản phẩm phục vụ, khai thác du lịch nhằm tạo ra nguồn thu từ chính di văn hóa truyền thống của địa phương. Tỉnh tổ chức liên hoan, hội thi, hội diễn Múa Rom Vong và phối hợp với các cơ quan, đơn vị tổ chức liên hoan giao lưu nghệ thuật.

Tỉnh tăng cường quảng bá, giới thiệu giá trị của Di sản văn hóa Nghệ thuật Múa Rom Vong trên các phương tiện thông tin đại chúng; xây dựng chương trình, kế hoạch phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng; duy trì hiệu quả Cổng thông tin du lịch, chuyên mục trên website Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cổng thông tin điện tử tỉnh Sóc Trăng. Đặc biệt, tỉnh quảng bá, giới thiệu các di sản văn hóa của địa phương đến du khách trong nước và quốc tế. Tỉnh củng cố, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn phục vụ công tác quản lý di sản với sự hỗ trợ của các cơ quan, nhà khoa học trong và ngoài nước.

Nhật Bình

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm