Bắc Giang bảo lưu, trao truyền, nuôi dưỡng di sản Then

Bắc Giang là vùng đất gắn với nhiều di sản. Đặc biệt năm 2019, tỉnh là một trong 11 địa phương sở hữu di sản Thực hành Then được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Những năm qua, công tác bảo tồn, phát huy giá trị Then của người Tày, Nùng đã được các cấp chính quyền và nhân dân trong tỉnh quan tâm, chú trọng thực hiện với nhiều giải pháp và hoạt động thiết thực.

Nét sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng nổi bật của người Tày, Nùng

Ở Bắc Giang, người Tày, Nùng là hai tộc người có dân số đông sau người Kinh. Họ cư trú rộng khắp trong toàn tỉnh nhưng tập trung chủ yếu ở các huyện: Lục Ngạn, Sơn Động, Lục Nam, Yên Thế và Lạng Giang. Một trong những hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng phổ biến nhất và không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Tày, Nùng nơi đây là Then.

vna_potal_dam_da_am_sac_dem_bieu_dien_gioi_thieu_nghe_thuat_hat_then_dan_tinh_tai_ha_noi_7708633.jpg
Biểu diễn làn điệu Then "Còn mãi cung đàn Then" của đoàn Bắc Giang. Ảnh: Thanh Tùng - TTXVN

Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang, hiện trên địa bàn tỉnh, Thực hành Then của người Tày, Nùng được phân chia thành Then trong nghi lễ (là loại Then cổ phục vụ việc hành nghề tín ngưỡng) và Then trong sinh hoạt văn hóa, văn nghệ thường ngày gọi là Then văn nghệ (cải biên, sáng tác dựa trên âm hưởng Then cổ). Then không chỉ được sử dụng trong các nghi lễ của người Tày, Nùng mà còn được diễn xướng trong các buổi sinh hoạt văn nghệ, hội họp thường ngày, trong lao động, sản xuất, hát đối đáp giao duyên nam nữ…

Nghệ nhân Ưu tú Lục Văn Tích - người tâm huyết gìn giữ, bảo tồn và phát triển nghệ thuật hát Then ở Bắc Giang cho biết, Then nghi lễ được thực hiện ở các dịp lễ cầu an, sinh nhật, giải hạn, nhà mới, gửi con, cúng tổ tiên, cắt tiền duyên... Then văn nghệ là những làn điệu ngắn có âm hưởng vui tươi, nội dung chủ yếu là ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu lứa đôi, ca ngợi công lao của Đảng, Bác Hồ, cầu mong cuộc sống bình an, mùa màng bội thu. Một trong những điểm đặc sắc của Then là ngôn ngữ ẩn chứa chiều sâu văn hóa. Do đó, Then đã góp phần hun đúc tâm hồn, tình cảm và ý chí, khát vọng vươn lên, xây đắp cuộc sống ấm no, hạnh phúc của đồng bào dân tộc Tày, Nùng, được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Lan tỏa giá trị của Then trong cộng đồng

Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang Nguyễn Sĩ Cầm cho biết, sau khi di sản Then được UNESCO ghi danh, tỉnh đã tập trung chỉ đạo triển khai các giải pháp đồng bộ để bảo tồn, phát huy giá trị di sản nhằm thực hiện cam kết của quốc gia với UNESCO. Đồng thời, triển khai hiệu quả Chương trình hành động quốc gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể Thực hành then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, giai đoạn 2022 - 2027 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Năm 2021, UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt đề án “Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2021 - 2030”; trong đó, ưu tiên bảo tồn các di sản văn hóa đã được UNESCO vinh danh và đề ra nhiệm vụ cụ thể để bảo tồn và phát huy di sản thực hành Then theo từng giai đoạn. Năm 2022, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang ban hành văn bản triển khai Chương trình hành động quốc gia bảo vệ và phát huy giá trị Di sản Văn hóa phi vật thể “Thực hành Then của người Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam” đến các phòng, đơn vị trực thuộc Sở và các huyện: Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Lạng Giang, Yên Thế.

vna_potal_van_hoa_soi_duong_bao_ton_phat_huy_gia_tri_di_san_then_cua_nguoi_tay_nung__7678208.jpg
Hát Then của đồng bào Tày, Nùng. Ảnh: Đồng Thuý - TTXVN

Từ năm 2019, hằng năm, Trung tâm Văn hóa Điện ảnh tỉnh Bắc Giang đều tổ chức các lớp truyền dạy hát Then, đàn Tính. Đến nay đã có gần 200 lượt học viên theo học, có kết quả khả quan. Tại các huyện, ngành Văn hóa chú trọng công tác bồi dưỡng Then cho thế hệ trẻ. Hằng năm, Trung tâm Văn hóa Thông tin và Thể thao các huyện: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Lạng Giang đều tổ chức các lớp truyền dạy hát Then, đàn Tính cho các câu lạc bộ trên địa bàn huyện. Hoạt động này còn được một số trường đưa vào giảng dạy trong các tiết học và hoạt động của đơn vị. Điển hình như: Huyện Sơn Động tổ chức giảng dạy chính khóa tại giờ học âm nhạc cho các học sinh khối trung học cơ sở thuộc các xã vùng Đông Bắc của huyện (nơi có nhiều đồng bào dân tộc Tày sinh sống). Huyện Lục Ngạn đưa hát Then, đàn Tính vào truyền dạy tại một số trường trung học cơ sở vào các giờ hoạt động ngoại khóa, giáo dục địa phương thu hút nhiều học sinh tham gia.

Bắc Giang khuyến khích các địa phương có đông đồng bào dân tộc Tày, Nùng sinh sống, thành lập các câu lạc bộ hát Then, đàn Tính. Một số địa phương dành kinh phí đầu tư mua sắm trang thiết bị, trang phục, nhạc cụ... đảm bảo điều kiện duy trì các hoạt động của câu lạc bộ. Số lượng câu lạc bộ hát Then, đàn Tính ở các địa phương được thành lập ngày càng tăng. Đến nay, tỉnh có 20 câu lạc bộ. Nhiều cá nhân, câu lạc bộ đã giành giải cao khi tham gia hội thi, hội diễn văn nghệ trong và ngoài tỉnh. Đặc biệt, tại một số điểm du lịch cộng đồng trên địa bàn huyện Sơn Động và Yên Thế, vài năm gần đây, Then văn nghệ được đưa vào phục vụ du lịch mang lại nhiều kết quả thiết thực.

Tỉnh tạo điều kiện để di sản Then được bảo lưu, trao truyền, nuôi dưỡng và phát triển thông qua các sự kiện văn hóa, du lịch, ngày hội văn hóa, thể thao, các kỳ liên hoan… phục vụ nhu cầu giao lưu giải trí của nhân dân cũng như các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Trong đó, đáng chú ý nhất là sự kiện tổ chức Liên hoan hát Then đàn tính lần thứ I của tỉnh Bắc Giang vào tháng 11/2023 gồm nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật phong phú và đặc sắc.

Đặc biệt, năm 2023, Bắc Giang đã ban hành quy định về chính sách hỗ trợ đối với Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn. Theo đó, từ năm 2024, Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú tỉnh Bắc Giang được hỗ trợ hằng tháng và hưởng chế độ hỗ trợ chi phí mai táng khi chết. Đến nay, tỉnh có 43 nghệ nhân được phong tặng, trong đó có 2 nghệ nhân thực hành Then được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú được thụ hưởng chính sách trên.

Để tiếp tục bảo tồn, phát huy giá trị di sản Then của người Tày, Nùng, thời gian tới, Bắc Giang tiếp tục hiện đồng bộ các giải pháp. Trong đó, đẩy mạnh thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ đề án, dự án, Chương trình hành động về bảo vệ và phát huy giá trị Di sản Văn hóa phi vật thể Thực hành then; phối hợp với ngành Giáo dục đưa chương trình dạy hát Then vào giảng dạy trong trường học, đặc biệt là các vùng có đông đồng bào Tày, Nùng cư trú. Các địa phương xây dựng, duy trì, phát huy hiệu quả hoạt động của các câu lạc bộ thực hành Then trên địa bàn; tăng cường công tác xã hội hóa trong cộng đồng, hỗ trợ cùng với nguồn kinh phí Nhà nước bảo đảm duy trì và phát triển hoạt động trình diễn di sản Then tại cơ sở. Các địa phương thường xuyên tổ chức liên hoan hát Then, đàn Tính cấp tỉnh, huyện, xã để các nghệ nhân, diễn viên quần chúng có dịp để giao lưu, học hỏi.

Ngoài ra, tỉnh Bắc Giang định hướng đưa di sản Then trở thành một sản phẩm du lịch tại các điểm du lịch cộng đồng phục vụ nhu cầu thưởng thức của du khách trong và ngoài nước. Đồng thời, tôn vinh, khen thưởng các cá nhân, cộng đồng có nhiều đóng góp trong việc gìn giữ, thực hành, truyền dạy, bảo vệ và phát huy giá trị di sản Then trong cộng đồng.

Đồng Thúy

(TTXVN)
Dân tộc Tày Dân tộc Tày

Tên gọi khác: Thổ.

Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí.

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai).

Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.

Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình).

vna_potal_tuyen_quang_gin_giu_nghe_det_tho_cam_cua_nguoi_tay_o_thuong_nong_5693566.jpg
Phụ nữ Tày biết dệt vải, may quần áo từ khi mới 13-14 tuổi. Ảnh: Nam Sương - TTXVN

: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà.

Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng mảng để chuyên chở.

Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối.

Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Cưới xin: Nam nữ Tày được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.

Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lịch: Người Tày theo âm lịch.

Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.

Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm