Lịch sử hình thành và phát triển Nhã nhạc Cung đình Huế

Lịch sử hình thành và phát triển Nhã nhạc Cung đình Huế
Thể thức của loại hình Nhã nhạc này thể hiện tính Vương quyền, tính uy nghi, hoành tráng của Triều đại. Nhã nhạc Cung đình Huế được xem là loại hình âm nhạc chính thống, là Quốc nhạc, được sử dụng trong các cuộc tế lễ của Triều đình (như lễ Đăng quang, lễ Băng hà, lễ tế Nam Giao, lễ tế Xã tắc, và nhiều lễ trang nghiêm khác...). Loại hình âm nhạc này trở thành một biểu tượng cho Vương quyền về sự trường tồn, hưng thịnh của Triều đại. Chính vì vậy, các Vua nhà Nguyễn đã coi trọng việc phát triển Nhã nhạc Cung đình. Qua từng thời kỳ lịch sử, âm nhạc Cung đình được kế thừa và tiếp tục phát huy phục vụ cho các Vương triều phong kiến.

Dưới thời Vua Đinh thế kỷ X đã có nhã nhạc nhưng do tình hình lịch sử và hoàn cảnh lúc bấy giờ nên không thấy có tư liệu nào để lại và đến thời Tiền Lê cũng vậy.

Nhã nhạc Cung đình thời Lý - Trần đã bộc lộ khá rõ nét. Sử sách ghi lại những vũ điệu Cung đình nhà Lý có ảnh hưởng của Chiêm Thành. Đến thời Trần, sinh hoạt ca múa Cung đình phong phú về loại hình và bài bản, có tổ chức dàn Đại nhạc và Tiểu nhạc. Qua sử sách và thư tịch cổ cho thấy dưới Triều Vua Lê Thánh Tông đã đạt được những thành tựu rất cao trong việc xây dựng thiết chế, ổn định tổ chức và phong cách âm nhạc trong Triều đình, có thể thấy qua sự kiện lịch sử về vụ tranh chấp giữa nhóm Nguyễn Trãi và Lương Đăng xung quanh việc chế định Nhã nhạc Triều Lê Thánh Tông. Cùng với đó, thiết lập các “Bộ” Đồng Văn, Nhã nhạc và “Ty” Giáo phường, những cơ quan Nhà nước chuyên trách việc nghiên cứu, sáng tác, đào tạo, quản lý các hoạt động nhã nhạc trong Triều cũng như ngoài dân gian. Thời kỳ này, Nhã nhạc được ổn định và chính thức hoá ngôn ngữ âm nhạc truyền thống Việt Nam: lý thuyết “5 cung 7 thanh”, các điệu thức Bắc, Nam, Huỳnh, Pha… Thời kỳ này bắt đầu có sự phân biệt nhạc khí Cung đình với nhạc khí dân gian.
 
Nhã nhạc Cung đình Huế được phát triển với sự đa dạng và phong phú về thể loại. (Ảnh: TL)
Nhã nhạc Cung đình Huế được phát triển với sự đa dạng và phong phú về thể loại. (Ảnh: TL)

Dưới thời Lê, Mạc, Trịnh - Nguyễn, Nhã nhạc Cung đình trải qua thời kỳ suy thoái do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1623-1634) lập ra một hệ thống Lễ nhạc, Triều nhạc mới. Hòa thanh thự của các chúa là tổ chức âm nhạc Cung đình lớn của Đàng trong gồm ban nhạc, đội ca, đội múa đông đảo.

Đến thời Nguyễn (1802-1945), vào nửa đầu thế kỷ XIX, âm nhạc Cung đình phát triển trở lại. Những thiết chế tổ chức từ Triều Lê đã được kế thừa và phát triển rộng rãi, đặc biệt ca kịch Cung đình được đẩy lên một trình độ cao dưới thời Vua Nguyễn. Môi trường diễn xướng xuất hiện với sự đầu tư của Triều đình rất công phu, lần lựợt nhà hát Duyệt Thị Đường, Minh khiêm Đường ra đời. Nhã nhạc Triều Nguyễn đã sử dụng hàng trăm nhạc chương có lời ca bằng chữ Hán. Phần lớn các nhạc chương đều do quan Bộ Lễ hoặc Hàn Lâm viện biên soạn có nội dung phù hợp với các cuộc lễ của Triều đình.

Ngoài ra, trong cuốn Minh Mạng chính yếu  còn ghi lại những chi tiết về nhạc Lễ Cung đình, đây chính là tài liệu có giá trị lịch sử rất quý báu để nghiên cứu sâu hơn về âm nhạc Cung đình Huế.       

Theo lịch sử ghi nhận, thời kỳ vàng son của âm nhạc Cung đình Việt Nam là dưới Triều Nguyễn trước khi Kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ vào năm 1885. Hai tài liệu chủ yếu là “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (đầu thế kỉ XIX) và “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” của Quốc sử quán (giữa thế kỉ XIX) cho biết: Từ sau khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức mất (1883), âm nhạc Cung đình Phú Xuân bây giờ quen gọi là Nhã nhạc Cung đình đã được phục hồi, chấn chỉnh và phát triển mạnh. Các loại giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, đại triều nhạc, thường triều nhạc, yến nhạc, Cung trung chi nhạc đã ảnh hưởng qua lại nhiều với nhạc cổ điển thính phòng (ca Huế, đờn Huế) và nhạc tuồng cổ điển, Cung đình (thanh nhạc và nhạc múa của hát bội Huế). Đáng chú ý là nhiều nhà hát, rạp hát lớn nhỏ của Vua, đại thần và dân thường được xây dựng làm nơi biểu diễn nhạc Cung đình, nhạc cổ điển, hát bội hay nhạc dân gian: Duyệt Thị Đường trong Hoàng thành, Minh Khiêm Đường trong lăng Tự Đức, Cửu Tư Đài trong Cung Ninh Thọ, rạp hát ông Hoàng Mười, nhà hát Mai Viên tại Tư dinh Thượng thư Đào Tấn, rạp hát ông Sáu Ớt (Nguyễn Nhơn Từ), rạp hát gia đình họ Đoàn (ở An Cựu), rạp hát bà Tuần (tồn tại đến 1975).
Theo lịch sử ghi nhận, thời kỳ vàng son của âm nhạc Cung đình Việt Nam là dưới Triều Nguyễn trước khi Kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ vào năm 1885. (Ảnh: TL)
Theo lịch sử ghi nhận, thời kỳ vàng son của âm nhạc Cung đình Việt Nam là dưới Triều Nguyễn trước khi Kinh đô Phú Xuân (Huế) thất thủ vào năm 1885. (Ảnh: TL)

Dưới thời Vua Gia Long (1802-1819), “Việt tương đội” là một tổ chức âm nhạc Cung đình lớn được thành lập với 200 nghệ nhân. Vua lại cho dựng đài Thông minh, một sân khấu ca múa nhạc và hát bội trong Cung Ninh Thọ.

Dưới thời Vua Minh Mạng (1820-1840) cho xây dựng Nhà hát lớn Duyệt Thị Đường (1824), đổi Việt tương đội thành Thanh bình thự, lập thêm một đội nữ nhạc với 50 ca nữ, vũ nữ, lại cho xây dựng Nhà thờ các tổ sư nghệ thuật âm nhạc và hát bội Huế: Thanh Bình từ đường (1825). Trước nhà thờ dựng một tấm bia, một sân khấu hát bội và ca vũ nhạc. Theo Văn bia ghi nhận vào đời Minh Mạng, nghệ thuật âm nhạc và sân khấu đã phát triển ở mức cao hơn, hoành tráng hơn. Trong cuốn Đại Nam thực lục đã ghi lại lời của Vua với các quan như sau: “... Trẫm thấy là buổi đầu gây dựng, lễ nhạc còn thiếu, thường muốn sáng chế mà chưa nắm được cốt yếu... Nay tuy nhạc xưa đã bỏ mất, mà đồ bát âm còn có thể khảo được. Nên tìm người hiểu âm nhạc cùng bọn các ngươi chế tác” .

Đến đời Vua Tự Đức (1841-1883), âm nhạc cổ điển, Nhã nhạc Cung đình và hát bội Cung đình đạt tới đỉnh cao. Nhà Vua cho xây dựng Nhà hát Minh Khiêm Đường (1864) trong Khiêm cung (sau khi Vua mất gọi là Khiêm lăng). Tương truyền chính Tự Đức đã sáng tác bản nhạc Tứ đại cảnh nổi tiếng. Là người say mê thơ, nhạc và hát bội hơn chính trị, Vua lập nên Hiệu thơ phòng để cùng các danh nho trong Triều đình xướng họa thơ văn, thưởng thức âm nhạc, sáng tác hay nhuận sắc các vở hát bội.

Từ năm 1858-1885, thực dân Pháp gây hấn và bắt đầu xâm lược nước ta từ Đà Nẵng, rồi chiếm dần Nam Bộ, Bắc Bộ. Tháng 8-1885, Kinh đô Phú Xuân Huế thất thủ, các Vua Nguyễn sau Tự Đức đều được Pháp đưa ra làm vì, mất hết quyền bính. Đời sống Cung đình tẻ nhạt, nên âm nhạc Cung đình cũng không được quan tâm, đầu tư và phát triển.
 
Nhã nhạc Cung Đình Huế là một sự kế thừa và phát triển qua các triều đại phong kiến Việt Nam. (Ảnh: TL)
Nhã nhạc Cung Đình Huế là một sự kế thừa và phát triển qua các triều đại phong kiến Việt Nam. (Ảnh: TL)

Năm 1889-1925, Vua Thành Thái lập “Võ can đội”, rồi thêm một đội “Đồng ấu” (nghệ nhân thiếu niên, làm dự bị cho Võ can đội), nhưng tất cả đều hoạt động cầm chừng. Năm 1914-1944, Tập san “Những người bạn cố đô Huế” (Bulletin des Amis du Vieux Huế) ra đời và xuất bản tổng cộng 120 tập, trong đó có nhiều bài nghiên cứu có giá trị về nhạc Huế được công bố, nổi bật nhất là công trình của nhạc sĩ cổ điển Hoàng Yến (1919): “Âm nhạc ở Huế, đàn nguyệt và tranh”.

Năm 1925-1945, dưới thời Vua Bảo Đại, “Võ can đội” thời Vua Thành Thái được đổi thành “Ba vũ đội” gồm cả một đội Đại nhạc và một đội Tiểu nhạc, tổng cộng khoảng 100 nghệ nhân hoạt động rời rạc, trong lúc chờ đợi làm nhiệm vụ chính: tham gia phục vụ Lễ Tế Nam giao. Năm 1942, Nhã nhạc Cung đình Huế được biểu diễn trong cử hành Lễ Tế Nam giao, đây cũng là lần cuối cùng nhã nhạc được sử dụng phục vụ trong Cung đình Triều Nguyễn. Ngày 31-8-1945, khi Hoàng đế cuối cùng của Triều Nguyễn thoái vị, nhã nhạc Cung đình không còn có cơ hội để sử dụng và phát triển. Cuối thời Nguyễn, Triều đình chỉ còn duy trì 2 loại dàn nhạc là Đại nhạc và Tiểu nhạc bên cạnh dàn Quân nhạc ảnh hưởng từ văn hoá Phương Tây. Nhiều bài bản bị rơi vào quên lãng, biên chế các dàn nhạc bị thu hẹp, biến dạng, nhiều dàn nhạc và nhạc cụ bị biến mất hoàn toàn khỏi dàn nhạc Cung đình. Âm nhạc Cung đình Huế mất đi vị trí chức năng xã hội, môi trường diễn xướng nguyên thủy, đi vào suy thoái và có nguy cơ thất truyền. Mãi cho đến những năm cuối thế kỷ XX, Nhã nhạc dần dần được phục hồi, và rồi đạt được một vị thế mới trên trường quốc tế khi trở thành Kiệt tác Di sản Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại vào tháng 11-2003. Công cuộc bảo tồn và phát huy di sản Nhã nhạc còn không ít khó khăn đặt ra trước mắt. Việc nghiên cứu, tìm hiểu về cội nguồn lịch sử của nó là một trong những tiền đề quan trọng để di sản văn hoá thế giới này được bảo vệ một cách tốt nhất.    

Như vậy, Nhã nhạc Cung Đình Huế là một sự kế thừa và phát triển qua các triều đại phong kiến Việt Nam. Theo đánh giá của UNESCO, “trong các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc gia”. “Nhã nhạc đã được phát triển từ thế kỷ XIII  ở Việt Nam đến thời nhà Nguyễn thì Nhã nhạc Cung đình Huế đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất”. Hy vọng rằng với sự quan tâm của Nhà nước, cộng đồng quốc tế, chính quyền địa phương, cũng như những nghệ nhân còn sống và thế hệ trẻ sẽ cùng chung tay góp sức khôi phục và phát triển dòng nhạc “uyên bác” này.
Theo thegioidisan.vn

Có thể bạn quan tâm

Thế hệ trẻ dân tộc Raglai giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống

Thế hệ trẻ dân tộc Raglai giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống

Về với vùng núi Khánh Sơn hay Khánh Vĩnh (Khánh Hòa) những ngày này, không khó để bắt gặp hình ảnh những bạn trẻ người Raglai miệt mài tập múa, gõ chiêng hay tự tay chuẩn bị bộ trang phục truyền thống cho buổi trình diễn tại Ngày hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2025. 

Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam (19/4): Từ hồn cốt dân tộc đến động lực phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam (19/4): Từ hồn cốt dân tộc đến động lực phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Trong dòng chảy lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước, văn hóa của 54 dân tộc anh em không chỉ là biểu tượng của sự phong phú và đa dạng, mà còn là cội nguồn tạo nên sức mạnh tinh thần, là nguồn lực chiến lược để xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Thay áo mới cho nhà rông Kon Sơ Lăl

Thay áo mới cho nhà rông Kon Sơ Lăl

Giữa đại ngàn Tây Nguyên lộng gió, nhà rông Kon Sơ Lăl - “trái tim” của người Bahnar ở xã Hà Tây (huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) vừa được thay mái mới sau nhiều năm che nắng gió, mưa ngàn. Không máy móc, không bê tông cốt thép, công trình mang đậm tinh thần cộng đồng, được dựng lại từ đôi tay, trí nhớ và tình yêu văn hóa của chính những người dân trong làng.

Đưa di sản văn hóa địa phương đến với trẻ em vùng cao Bình Thuận

Đưa di sản văn hóa địa phương đến với trẻ em vùng cao Bình Thuận

Sáng 14/4, tại Trường Tiểu học và Trung học cơ sở Đông Giang, huyện Hàm Thuận Bắc, Bảo tàng tỉnh Bình Thuận tổ chức khai mạc trưng bày, triển lãm tranh “Học sinh với di sản văn hóa địa phương và chủ quyền biển đảo Việt Nam”. Sự kiện nằm trong chương trình phối hợp giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Sở Giáo dục và Đào tạo về “Hoạt động giáo dục thông qua di sản văn hóa và tổ chức học tập ngoại khóa tìm hiểu về di sản văn hóa địa phương tại các bảo tàng, di tích trên địa bàn tỉnh” giai đoạn 2020 - 2025.

 Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn: Di sản văn hóa là động lực quan trọng cho Bắc Ninh phát triển nhanh và bền vững

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn: Di sản văn hóa là động lực quan trọng cho Bắc Ninh phát triển nhanh và bền vững

Tối 13/4, tại Khu di tích Quốc gia đặc biệt Đền Đô (thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn dự Lễ kỷ niệm 1015 năm ngày Đức Vua Lý Thái Tổ đăng quang Hoàng đế; đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt đình Đình Bảng, Di tích Quốc gia Nhà lưu niệm đồng chí Lê Quang Đạo, Quyết định công nhận Bảo vật Quốc gia Ấn vàng “Hoàng đế chi bảo”.

Góp phần để Áo dài sớm được công nhận là Di sản văn hóa thế giới

Góp phần để Áo dài sớm được công nhận là Di sản văn hóa thế giới

Chương trình Áo dài nghệ thuật "Hương sắc Việt Nam" đã diễn ra tối 13/4, tại Hà Nội. Chương trình do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức, nhằm kỷ niệm 115 năm Ngày Quốc tế phụ nữ (8/3/1910 - 8/3/2025); 1985 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng, hướng tới kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2025); tiếp nối thành công của "Tuần lễ Áo dài" từ năm 2019 đến nay.

Tưng bừng Tết té nước của dân tộc Lào ở Na Sang

Tưng bừng Tết té nước của dân tộc Lào ở Na Sang

Vào trung tuần tháng Tư hằng năm, đồng bào dân tộc Lào sinh sống tại bản Na Sang, xã Núa Ngam, huyện Điện Biên (tỉnh Điện Biên) lại tưng bừng đón Tết cổ truyền Bun Huột Nặm – Lễ hội té nước đặc sắc, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống.

Nghi lễ thả đèn hoa đăng trên sông tại Tết cổ truyền Bunpimay - Lào Phật lịch 2568 năm 2025 ở huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk. Ảnh: Hoài Thu - TTXVN

Đặc sắc Tết Bunpimay - Lào 2025 tại Đắk Lắk

Trong hai ngày 12 - 13/4, tại đảo Ây Nô (Trung tâm Du lịch cầu treo Buôn Đôn, buôn Trí, xã Krông Na), UBND huyện Buôn Đôn phối hợp với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Xuất nhập khẩu 2/9 Đắk Lắk, Hội hữu nghị Việt Nam - Lào tỉnh tổ chức Tết cổ truyền Bunpimay - Lào (Phật lịch 2568) năm 2025 và Ngày hội văn hóa các dân tộc huyện Buôn Đôn.

Lễ hội Vía bà Chúa xứ thu hút hàng nghìn người dân và du khách

Lễ hội Vía bà Chúa xứ thu hút hàng nghìn người dân và du khách

Từ ngày 11-13/4 (14-16/3 năm Ất Tỵ), tại Khu Di tích Quốc gia đặc biệt Gò Tháp (xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp) diễn ra Lễ hội Vía Bà Chúa xứ năm 2025. Đây là một lễ hội lớn của tỉnh Đồng Tháp, thu hút nhiều người dân và du khách đến tham quan, chiêm bái.

Lễ hội Hoa Lư - nơi tôn vinh lòng tự hào dân tộc và tinh thần đại đoàn kết

Lễ hội Hoa Lư - nơi tôn vinh lòng tự hào dân tộc và tinh thần đại đoàn kết

Lễ hội Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình là lễ hội truyền thống được tổ chức hằng năm vào dịp tháng 3 âm lịch nhằm tưởng nhớ, tri ân công lao to lớn của các bậc Tiên đế, tiền nhân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước; khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc và tinh thần đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam. Trải qua 1.057 năm, Lễ hội Hoa Lư không chỉ giữ nguyên những giá trị nổi bật về lịch sử và văn hóa mà còn tạo tiền đề để phát triển du lịch Ninh Bình, xứng danh là một trong những di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam.

An Giang phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ

An Giang phát huy giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào Khmer Nam Bộ

Nhân dịp đón mừng Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây năm 2025 của đồng bào dân tộc Khmer Nam Bộ, tối 10/4, tại quảng trường Thái Quốc Hùng (thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh An Giang phối hợp với UBND huyện Tri Tôn tổ chức khai mạc Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào dân tộc Khmer lần thứ XIV năm 2025.

Mang không gian văn hóa Tây Nguyên đến Thủ đô Hà Nội

Mang không gian văn hóa Tây Nguyên đến Thủ đô Hà Nội

Theo thông tin từ Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, vào các tối 12 và 13/4, khán giả Thủ đô sẽ được hòa mình vào không gian văn hóa, nghệ thuật Tây Nguyên ngay tại Hà Nội với chương trình âm nhạc, nghệ thuật dân gian “Tiếng gọi Cao nguyên” và vở ca kịch “Khát vọng Dam Săn” do Đoàn Ca múa Dân tộc Đắk Lắk biểu diễn, mang đến cho khán giả một không gian văn hóa đặc sắc của vùng đất Tây Nguyên ngay tại Thủ đô Hà Nội.

Nâng tầm giá trị di sản văn hóa gốm Chăm

Nâng tầm giá trị di sản văn hóa gốm Chăm

Tại Ninh Thuận, cộng đồng làng gốm cổ Chăm Bàu Trúc (thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước) đang “thổi một luồng gió mới” vào nghệ thuật làm gốm đã được UNESCO ghi danh vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Người dân nơi đây không chỉ nỗ lực bảo tồn những tinh hoa nghề truyền thống mà còn sáng tạo các dòng sản phẩm gốm mới và đẩy mạnh phát triển du lịch cộng đồng.

Người dân Cà Mau hướng về Giỗ Tổ Hùng Vương

Người dân Cà Mau hướng về Giỗ Tổ Hùng Vương

Hòa cùng không khí của cả nước, ngày 7/4, tại Đền thờ Vua Hùng (tại ấp Giao Khẩu, xã Tân Phú, huyện Thới Bình), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Cà Mau tổ chức Lễ Giỗ Tổ Vua Hùng với lòng thành kính và biết ơn sâu sắc.

Toàn cảnh Bến Lộc An – Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ảnh: vungtau.gov.vn

Vùng đất lịch sử Xuyên Mộc - thủ phủ du lịch Đông Nam Bộ

Sự kiện di tích Bến tàu không số Lộc An (xã Phước Thuận, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) được xếp hạng Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt vào cuối tháng 11/2024 đã khẳng định giá trị lịch sử của địa danh này. Cùng với những tiềm năng du lịch sẵn có của địa phương, những năm qua, Xuyên Mộc vươn mình mạnh mẽ thành một thủ phủ du lịch của cả vùng Đông Nam Bộ.

Bảo tồn và phát huy giá trị bánh dân gian Nam Bộ

Bảo tồn và phát huy giá trị bánh dân gian Nam Bộ

Tối 6/4, tại Quảng trường quận Bình Thủy (thành phố Cần Thơ), Lễ hội bánh dân gian Nam Bộ lần thứ XII năm 2025 chính thức khai mạc với chủ đề “Bảo tồn và phát huy giá trị bánh dân gian Nam Bộ”.

Ông Sok Daret, Tổng lãnh sự Campuchia tại Thành phố Hồ Chí Minh (phải) thực hiện nghi lễ tắm Phật. Ảnh: Xuân Khu - TTXVN

Lễ hội Tết cổ truyền các nước Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar tại Thành phố Hồ Chí Minh

Sáng 6/4, tại chùa Phổ Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Thành phố Hồ Chí Minh (HUFO) phối hợp với Ban Phật giáo Quốc tế Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức Lễ hội đón Tết cổ truyền Bunpimay của người dân Lào, Tết Songkran của Thái Lan, Tết Chôl Chhnăm Thmây của Campuchia và Tết Thingyang của Myanmar.

Lễ hội té nước của đồng bào dân tộc Lào ở Điện Biên

Lễ hội té nước của đồng bào dân tộc Lào ở Điện Biên

Sáng 6/4, đồng bào dân tộc Lào ở bản Pa Xa Lào, xã biên giới Pa Thơm, huyện Điện Biên (Điện Biên) tổ chức Tết truyền thống Khăm bản (Hội té nước). Đây là một trong những lễ hội quan trọng nhất trong năm của dân tộc Lào với mục đích cầu mong một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, bản làng ấm no, hạnh phúc.

Các đội thi gói bánh chưng. Ảnh: Trung Kiên - TTXVN

Hấp dẫn Hội thi bánh dân gian Nam Bộ

Trong khuôn khổ Lễ hội bánh dân gian Nam Bộ, sáng 6/4, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Cần Thơ phối hợp Sở Nông nghiệp và Môi trường tổ chức Hội thi bánh dân gian và cây cảnh bonsai Đền Hùng Cần Thơ năm 2025.

Các đội quyết tâm thi đấu và giành chiến thắng ngay ở những vòng đua đầu tiên. Ảnh: Tạ Toàn - TTXVN

Mãn nhãn với cuộc đua bơi chải trên hồ Công viên Văn Lang

Trong khuôn khổ các hoạt động Giỗ Tổ Hùng Vương và Tuần văn hóa, du lịch - Đất Tổ năm 2025, sáng 6/4, Ban Tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương và Tuần Văn hóa Du lịch - Đất Tổ 2025 tổ chức Hội thi bơi chải mở rộng trên hồ công viên Văn Lang, thành phố Việt Trì (Phú Thọ).

Bảo tồn và phát huy giá trị Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt

Bảo tồn và phát huy giá trị Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt không chỉ là nét đẹp văn hóa tâm linh đặc sắc mà còn thể hiện truyền thống yêu nước, uống nước nhớ nguồn của dân tộc. Việc Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại càng khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng của di sản trong đời sống văn hóa của người dân.