Xác định cây chè là một trong những cây trồng chủ lực có giá trị, cho sản phẩm thường xuyên ổn định, đảm bảo cuộc sống cho hàng vạn người dân, tỉnh Yên Bái sẽ tiếp tục cơ cấu lại ngành chè theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững các mối quan hệ giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm.
Theo ông Nguyễn Thế Phước, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Yên Bái, ngành chè cần tổ chức lại sản xuất, xây dựng các chuỗi liên kết; siết chặt hoạt động của các doanh nghiệp trong thu mua, chế biến sản phẩm chè; cải tạo nâng cao chất lượng vùng nguyên liệu trong canh tác và thu hái hướng tới phát triển chè sạch. Cùng với đó, các cấp ngành, địa phương trong tỉnh quan tâm hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư công nghệ, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại mở rộng thị trường và đẩy mạnh số hóa trong nông nghiệp.
Số liệu từ Cục Thống kê tỉnh Yên Bái cho thấy, năm 2021, diện tích chè trên địa bàn tỉnh là 7.436 ha (giảm 2.220 ha so với năm 2016); trong đó, diện tích chè cho sản phẩm là 6.989 ha, năng suất đạt 98,22 tạ/ha, sản lượng chè búp tươi đạt 68.645 tấn; giá trị sản phẩm chè búp tươi ước đạt trên 300 tỷ đồng.
Về chế biến và tiêu thụ sản phẩm, năm 2021, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có 52/115 cơ sở chế biến chè hoạt động. Tổng sản lượng chè khô chế biến từ nguyên liệu sản xuất của tỉnh đạt khoảng 15.500 tấn. Tổng giá trị sản xuất qua chế biến đạt khoảng 600 tỷ đồng. Đến nay, tỉnh đã có 16 sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn OCOP.
Ông Nguyễn Đức Điển, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Yên Bái cho biết, diện tích chè của tỉnh hiện nay giảm nhiều so với năm 2016. Nguyên nhân chính do diện tích chè già cỗi, không được đầu tư chăm sóc, hiệu quả kinh tế thấp nên người dân đã chuyển đổi sang trồng các loại cây lâm nghiệp, cây ăn quả và một phần diện tích giảm do thu hồi đất để làm các công trình giao thông, dân cư. Trong diện tích chè hiện có của tỉnh còn có một phần diện tích chè các hộ dân đã trồng các loại cây lâm nghiệp, cây ăn quả, quế.
Diện tích chè giảm khiến sản lượng chè cũng giảm. Năm 2021, sản lượng chè của Yên Bái giảm gần 12.000 tấn so với năm 2016. Cùng với đó, do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 nên việc tiêu thụ chè của tỉnh cũng chịu nhiều tác động với sản lượng tồn kho khoảng 1.000 tấn. Chi phí phục vụ cho sản xuất kinh doanh như vật tư, nhân công tăng cao trong khi giá sản phẩm đầu ra còn thấp, thị trường tiêu thụ chưa đảm bảo; hầu hết các đơn vị không chủ động được nguồn nguyên liệu để sản xuất…
Nhằm tiếp tục cơ cấu lại ngành chè Yên Bái theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững các mối quan hệ giữa sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm, năm 2022, tỉnh Yên Bái đặt ra mục tiêu sẽ ổn định diện tích chè khoảng hơn 7.400 ha; năng suất đạt 98 - 100 tạ/ha; sản lượng chè búp tươi đạt trên 68.000 tấn.
Để thực hiện được mục tiêu này, theo ông Nguyễn Đức Điển, thời gian tới, tỉnh Yên Bái sẽ tập trung bảo vệ các diện tích chè hiện có, tổ chức thực hiện việc trồng mới; trồng thay thế diện tích chè già cỗi bằng các giống tiến bộ kỹ thuật có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao. Cùng đó, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung tại các địa phương cụ thể, liên kết, gắn với các doanh nghiệp, cơ sở chế biến trên địa bàn; hỗ trợ các đơn vị chế biến xây dựng vùng nguyên liệu. Đồng thời, hướng dẫn người trồng chè áp dụng các tiến bộ kỹ thuật đầu tư thâm canh tăng năng suất, sản lượng chè búp tươi.
Tỉnh Yên Bái cũng tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất; đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, hướng dẫn, quản lý, giám sát việc thực hiện chính sách hỗ trợ đảm bảo đúng đối tượng và phát huy cao nhất hiệu quả của chính sách; rà soát đánh giá năng lực sản xuất của các đơn vị chế biến chè để từ đó có biện pháp quản lý phù hợp, hiệu quả; đồng thời, tăng cường công tác quản lý nhà nước, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, nâng cao thu nhập của người làm chè.
Việt Dũng