Trà Vinh bảo tồn tiếng nói, chữ viết của đồng bào Khmer Nam Bộ

Tỉnh Trà Vinh có tổng dân số trên 1 triệu người; trong đó, đồng bào Khmer chiếm gần 32% dân số. Địa phương luôn chú trọng công tác bảo tồn tiếng nói, chữ viết của đồng bào Khmer Nam Bộ. Trong tỉnh, nhiều trường học và chùa Phật giáo Nam tông Khmer dạy tiếng nói, chữ viết cho đồng bào.

Hành trình gieo tiếng “mẹ đẻ”

Trường Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ và Nhân văn (thuộc Trường Đại học Trà Vinh) được Chính phủ giao thực hiện nhiệm vụ trọng điểm quốc gia đào tạo nhân lực về Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam Bộ.

vna_potal_“gieo”_tieng_me_de_cho_dong_bao_khmer_7251386.jpg
Tiến sĩ Tăng Văn Thòn (đứng), Giảng viên Trường Ngôn ngữ- Văn hóa- Nghệ thuật Khmer Nam bộ và Nhân văn trong một buổi dạy ngôn ngữ Khmer tại trường. Ảnh: Thanh Hòa - TTXVN

Tiến sĩ Tăng Văn Thòn là giảng viên Trường Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam bộ và Nhân văn (thuộc Trường Đại học Trà Vinh). Sinh năm 1982, thầy giáo Thòn xuất thân trong một gia đình trung nông ở huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh - địa phương có đồng bào Khmer chiếm trên 60% dân số huyện. Cha mẹ cùng là người Khmer, từ nhỏ, thầy thường xuyên được nghe tiếng nói của dân tộc mình.

Niềm đam mê với ngôn ngữ này chính thức bắt đầu khi cậu bé Tăng Văn Thòn học hết Trung học Cơ sở, vào chùa Mé Láng, thị trấn Định An (huyện Trà Cú) để tu học theo phong tục của đồng bào Khmer. Tại đây, được các vị sư trong chùa truyền dạy học tiếng nói, chữ viết Khmer, Tăng Văn Thòn dần say mê rồi ấp ủ ước mơ trở thành thầy giáo để “gieo” tiếng mẹ đẻ cho thế hệ sau và bắt đầu hành trình đi tìm tri thức.

Sau khi hoàn thành Chương trình Trung cấp Pali Khmer (thuộc hệ thống Giáo dục của Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Trà Vinh), ông xuất tu và học tiếp Trung học Phổ thông, Cao đẳng, Đại học. Năm 2013, với thành tích học tập tốt, sau khi tốt nghiệp Đại học ngành Văn hóa các dân tộc Việt Nam tại Trường Đại học Trà Vinh, ông được nhà trường giữ lại làm chuyên viên Ban Giới và Dân tộc. Chính môi trường này giúp cậu thiếu niên Khmer ngày nào có cơ hội học tiếp và cập bến bờ tri thức, hiện thực hóa ước mơ sau hành trình dài kiên trì, bền bỉ đi tìm con chữ.

vna_potal_“gieo”_tieng_me_de_cho_dong_bao_khmer_7251385.jpg
Tiến sĩ Tăng Văn Thòn (bên trái), Giảng viên Trường Ngôn ngữ- Văn hóa- Nghệ thuật Khmer Nam bộ và Nhân văn trong một buổi dạy ngôn ngữ Khmer tại trường. Ảnh: Thanh Hòa - TTXVN

Đến tháng 7/2023, ông Thòn đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Vương quốc Campuchia theo chương trình học bổng diện Hiệp định giữa hai quốc gia Việt Nam và Campuchia, hoàn thành trước 4 tháng so với kế hoạch và trở về trường tiếp tục sự nghiệp gieo niềm đam mê ngôn ngữ Khmer.

Tiến sĩ Tăng Văn Thòn chia sẻ, tính đến nay, ông đã tham gia 9 khóa đào tạo bộ môn ngôn ngữ Khmer, với khoảng 200 sinh viên chính quy và 300 sinh viên vừa học vừa làm. Nhiều em đã tốt nghiệp và công tác tại cơ quan các tỉnh, thành khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều em đã tiếp nối hành trình gieo chữ "mẹ đẻ" cho thế hệ sau, có em trở thành phiên dịch viên cho các Công ty ở nước ngoài… Từ năm 2020, Tiến sĩ Tăng Văn Thòn đảm nhiệm thêm chức danh Phó Chủ tịch Hội đồng Quốc gia thẩm định sách giáo khoa tiếng dân tộc thiểu số - tiếng Khmer.

Tích cực bảo tồn tiếng nói, chữ viết của đồng bào Khmer

Tại Trà Vinh hiện nay, việc dạy ngôn ngữ mẹ đẻ cho đồng bào Khmer rất phổ biến. Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Trà Vinh Nguyễn Thị Bạch Vân cho biết, ngành Giáo dục và Đào tạo địa phương đã đưa chương trình dạy chữ Khmer vào các cơ sở giáo dục trên địa bàn. Bình quân mỗi năm học, toàn tỉnh có trên 100 cơ sở giáo dục phổ thông tổ chức dạy chữ Khmer với hơn 800 lớp và 19.000 học sinh học. Riêng năm học 2023 - 2024, tỉnh có 125 trường học dạy tiếng Khmer cho gần 36.000 học sinh; trong đó, cấp Tiểu học có 80 trường, Trung học cơ sở 41 trường và Trung học phổ thông 4 trường.

vna_potal_“gieo”_tieng_me_de_cho_dong_bao_khmer_7251381.jpg
Tiến sĩ Tăng Văn Thòn (bên phải), Giảng viên Trường Ngôn ngữ- Văn hóa- Nghệ thuật Khmer Nam bộ và Nhân văn trong một buổi dạy ngôn ngữ Khmer tại trường. Ảnh: Thanh Hòa- TTXVN

Bên cạnh đó, địa phương còn tổ chức các lớp bổ túc văn hóa tiếng Khmer tại các điểm chùa Phật giáo Nam tông Khmer. Các lớp học này do các vị sư và Achar (người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số) thông thạo tiếng Khmer đảm nhiệm công tác giảng dạy. Hơn 10 năm nay, Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho trên 2.000 vị Sư và Achar để phục vụ tốt công tác giảng dạy. Những người dạy học tiếng Khmer tại các điểm chùa Phật giáo Nam tông Khmer trong tỉnh được hỗ trợ 35.000 đồng/tiết học.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Lê Thanh Bình cho biết, Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc; trong đó có ngôn ngữ dân tộc thiểu số. Là địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer, Trà Vinh luôn chú trọng vấn đề này. Tỉnh thường xuyên đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với việc dạy học tiếng Khmer; quyền lợi và trách nhiệm giữ gìn, phát huy giá trị tiếng nói, chữ viết của dân tộc Khmer.

Cùng với đó, UBND tỉnh chỉ đạo ngành Giáo dục và Đào tạo xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên dạy tiếng Khmer; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tiếng Khmer.

Tỉnh Trà Vinh hiện có 160 trường Tiểu học, 101 trường Trung học cơ sở, 35 trường Trung học phổ thông, 9 Trung tâm Giáo dục thường xuyên, 1 trường Trung cấp Pali Khmer, 1 trường Thực hành sư phạm (trực thuộc Trường Đại học Trà Vinh). Tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025, 100% cơ sở giáo dục phổ thông cấp tiểu học đủ điều kiện tổ chức dạy tiếng Khmer; 45% giáo viên dạy tiếng Khmer đạt chuẩn đào tạo theo quy định. Đến năm 2030, tổ chức dạy học tiếng Khmer tại 100% cơ sở, giáo dục phổ thông cấp trung học cơ sở đủ điều kiện; 100% giáo viên dạy tiếng Khmer đạt chuẩn đào tạo theo quy định.

Không chỉ góp phần phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, việc bảo tồn, gìn giữ những giá trị ngôn ngữ dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh còn giúp tình đoàn kết của hai dân tộc Kinh - Khmer ngày càng được thắt chặt, là tiền đề để địa phương phát huy sức mạnh nội lực xây dựng quê hương Trà Vinh ngày càng giàu đẹp.

Thanh Hòa

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm