Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời

Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời

Công tác khuyến học, khuyến tài trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng đã góp phần nâng cao dân trí, mang lại hiệu quả thiết thực trong công tác vận động người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số tham gia học tập thường xuyên và học tập suốt đời...

Theo Hội Khuyến học tỉnh Sóc Trăng, trong 5 năm qua, số lượng các gia đình học tập, dòng họ học tập, cộng đồng học tập và đơn vị học tập trên địa bàn tỉnh tăng đều và tăng nhanh. Từ 26.672 gia đình học tập, 175 dòng họ học tập, 56 cộng đồng học tập và 178 đơn vị học tập vào năm 2016, đến năm 2020, toàn tỉnh có gần 114.000 gia đình học tập, 688 dòng họ học tập, 597 cộng đồng học tập và hơn 720 đơn vị học tập ở các địa phương. 

Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời ảnh 1Học sinh Trường trung học cơ sở Đại Tâm thuộc huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng) tranh thủ ôn bài trước khi vào tiết học mới. Ảnh: An Hiếu
Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời ảnh 2Trường Trung học phổ thông dân tộc nội trú Huỳnh Cương, mái nhà chung của con em đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: An Hiếu
Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời ảnh 3Cán bộ Hội Khuyến học xã đến thăm gia đình ông Phan Trường Phát (dân tộc Hoa), một gia đình hiếu học tiêu biểu ở xã Đại Tâm, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng). Ảnh: An Hiếu
Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời ảnh 4Nhà giáo Nhân dân Lâm Es, Chủ tịch Hội Khuyến học tỉnh Sóc Trăng đến thăm một hộ gia đình dân tộc Khmer hiếu học ở xã Thạnh Phú, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: An Hiếu
Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời ảnh 5Học sinh Khmer Trường Trung học phổ thông dân tộc nội trú Huỳnh Cương ở (phường 3, thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng) trong giờ ra chơi. Ảnh: An Hiếu
Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời ảnh 6Thi công sửa chữa, nâng cấp một số hạng mục công trình của Trường bổ túc văn hóa Pali trung cấp Nam Bộ (Sóc Trăng). Ảnh: An Hiếu
Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời ảnh 7Phòng học công nghệ thông tin ở Trường Bổ túc Văn hóa Pali Trung cấp Nam Bộ (Sóc Trăng). Ảnh: An Hiếu
Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời ảnh 8Tặng quà, động viên các em học sinh dân tộc Khmer có hoàn cảnh khó khăn, học giỏi của Trường tiểu học Tham Đôn 3 ở xã Tham Đôn, huyện Mỹ Xuyên (Sóc Trăng). Ảnh: Chanh Đa
Sóc Trăng xây dựng xã hội học tập suốt đời ảnh 9 Niềm vui đến trường của trẻ em Khmer ở Trường mầm non 30/4 thuộc xã Phú Tân, huyện Châu Thành (Sóc Trăng). Ảnh: An Hiếu

Trong thời gian tới, Hội khuyến học tỉnh Sóc Trăng tiếp tục thực hiện nhiều giải pháp hướng tới đánh giá, công nhận danh hiệu “đơn vị học tập”; bình xét tiêu chí “gia đình học tập” gắn với bình xét danh hiệu “gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa”; từng bước nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của việc học tập thường xuyên, học tập suốt đời…

Thu Hương (Báo ảnh DT&MN/TTXVN)

(Báo ảnh DT&MN/TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm