Người Xê Đăng ở Kon Tum chung tay xây dựng nông thôn mới

Người Xê Đăng ở Kon Tum chung tay xây dựng nông thôn mới

Kon Plông là huyện vùng III của tỉnh Kon Tum. Toàn huyện có trên 27.000 người, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tới hơn 94% và cuộc sống của người dân còn nhiều khó khăn. Thời gian qua, chính quyền và người dân nơi đây đã nỗ lực khắc phục khó khăn, cùng nhau chung tay xây dựng nông thôn mới. Đến nay, huyện Kon Plông đã có 3 xã vùng dân tộc thiểu số đạt chuẩn nông thôn mới.

Người Xê Đăng ở Kon Tum chung tay xây dựng nông thôn mới ảnh 1Người dân thôn Đăk Nê, xã Măng Cành, huyện Kon Plông (Kon Tum) phát triển mạnh cây đương quy. Ảnh: baokontum.com.vn 

* Nông thôn mới có đặc thù

Xã Măng Cành có 9/9 thôn là người dân tộc thiểu số Xê Đăng. Trước khi xây dựng nông thôn mới, xã xác định Măng Cành không thể như các vùng thuận lợi khác. Nhìn lại sau một năm được công nhận nông thôn mới, ông Mai Xuân Mậu, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Măng Cành cho biết: Đối với Măng Cành, nông thôn mới thực hiện theo tiêu chí đặc thù, không bằng các xã vùng thuận lợi, đồng bằng, vùng phát triển. Cụ thể, Măng Cành là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, người dân có phong tục tập quán riêng. Nhà ở 3 cứng (nền, mái và vách cứng) nhưng với Măng Cành nhà sàn lợp tôn, mái ngói là đặc trưng của người dân. Cùng đó, chính quyền tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng để giúp thuận lợi trong sản xuất, tạo sinh kế cho dân. Là vùng có khí hậu lạnh, chính quyền xây dựng một số mô hình đặc thù phù hợp với thực tiễn và con người nơi đây.

Xác định giao thông là một trong những khâu đột phá, những năm qua, người dân Măng Cành đã tích cực tham gia làm đường giao thông nông thôn, đem lại nhiều khởi sắc cho buôn, làng ở vùng sâu, vùng xa nơi đây. Hàng loạt tuyến đường bê tông vào các làng, khu sản xuất được làm mới với sự hỗ trợ của chính quyền và người dân góp sức, hiến đất, cây trồng. Theo ông A Nghị, Trưởng thôn Đăk Ne, xã Măng Cành: Cán bộ kỹ thuật hướng dẫn, nhà nước hỗ trợ vật tư, vật liệu, dân góp công tham gia làm đường giao thông. Nhờ vậy, thôn Đăk Ne có 3 con đường bê tông mới vào 2 khu sản xuất và khu dân cư. Có đường bê tông, người dân đi lại thuận lợi, sản xuất, lưu thông và bán nông sản được giá hơn.

Trong sản xuất, chính quyền đang thay đổi dần diện tích lúa 1 vụ, mỳ (sắn) bằng mô hình cà phê xứ lạnh, cây dược liệu. Đây là cách để thay đổi cơ cấu cây trồng, đem thu nhập cho người dân. Cùng đó, chính quyền hỗ trợ các loại con giống như lợn, gà, vịt, trâu… vừa tạo thu nhập, vừa cải thiện dinh dưỡng bữa ăn cho người dân. Việc đưa nhiều mô hình, cây, con mới, phù hợp thực tiễn đã tạo được sức bật, giúp người dân tin tưởng vào con đường mà chính quyền và người dân đang chung tay xây dựng.

Khẳng định sự thay đổi tích cực khi xây dựng nông thôn mới, ông A Lễ, Chi hội trưởng Chi hội Cựu chiến binh làng Kon Chênh cho biết: Nhà nào cũng thi đua lao động sản xuất. Trước đây, khi thời tiết vào mùa mưa, lạnh, nhà nhà đóng cửa, sưởi lửa, uống rượu rồi ngủ. Giờ nhà nhà có cà phê xứ lạnh, nhiều nhà trồng cây dược liệu mang lại thu nhập cao. Cà phê, dược liệu có công ty thu mua, giá ổn định, đảm bảo thu nhập.

Sau một năm được công nhận nông thôn mới, một số chính sách hỗ trợ bị cắt như tiền bán trú, bảo hiểm y tế… Trước thực tế trên, xã Măng Cành đã phối hợp Bảo hiểm xã hội huyện tuyên truyền, vận động để dân hiểu chính sách sau khi được công nhận nông thôn mới. Nhờ vậy, 1/3 người dân trong xã đã tự nguyện tham gia bảo hiểm y tế. Đối với các chính sách với học sinh bán trú, chính quyền huyện đã vận động doanh nghiệp, người dân (góp gạo, rau, củ) cùng chung tay hỗ trợ các em để duy trì các lớp bán trú…

“Về lâu dài, xã kiến nghị Hội đồng nhân dân tỉnh cần ban hành Nghị quyết đặc thù với xã nông thôn mới ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số", ông Mai Xuân Mậu, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân xã Măng Cành cho biết.

Người Xê Đăng ở Kon Tum chung tay xây dựng nông thôn mới ảnh 2Điểm dân cư 57 hộ đồng bào dân tộc thuộc thôn Đăk Lanh, xã Măng Bút, huyện Kon Plông (Kon Tum) chính thức được đóng điện, hòa điện lưới Quốc gia. Ảnh: Dư Toán - TTXVN

* Dân vẫn là chủ thể

Có thể nói, trong quá trình xây dựng nông thôn mới, cấp ủy, chính quyền xã Măng Cành đã khơi dậy, phát huy được vai trò của người dân. Với Măng Cành, trong điều kiện cuộc sống của gần 2.500 người dân trong xã, với chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số Xê Đăng còn nhiều khó khăn, chính quyền xã xác định khâu đột phát là phải phát huy được nội lực của người dân và trước tiên tập trung vào việc phát triển kinh tế hộ gia đình.

Theo ông Mai Xuân Mậu: “Nhà nước hỗ trợ bằng các chính sách, người dân phải nỗ lực vươn lên để phát huy hiệu quả các chính sách mà Nhà nước mang lại. Việc dân phải thay đổi nếp nghĩ, cách làm, tự lực vươn lên là quan trọng nhất”. Với quyết tâm của cả hệ thống chính trị cùng sự chung sức, đồng lòng của người dân, giờ đây xã Măng Cành có sự phát triển vượt bậc. Hạ tầng cải thiện, giao thông thuận lợi. “Đường vào khu sản xuất, dân cư, nhà rông thôn được làm mới. Tất cả công trình trên, dân là người hưởng thụ trực tiếp. Nhà nước hỗ trợ, dân làng ai cũng tình nguyện, hưởng ứng”, ông A Nghị, Trưởng thôn Đăk Ne chia sẻ.

Đến nay, nhiều mô hình sản xuất, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và người dân được hình thành, hoạt động có hiệu quả. Các cây, con giống đem lại hiệu quả thiết thực cho dân. Nhờ vậy, đến cuối năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo của xã Măng Cành giảm xuống chỉ còn 3,5% theo chuẩn nghèo đa chiều.

Ông Đào Duy Khánh, Bí thư Huyện ủy Kon Plông khẳng định: “Xây dựng nông thôn mới đối với vùng khó khăn, nhất là vùng dân tộc thiểu số là nỗ lực rất lớn của hệ thống chính trị và sự ủng hộ của người dân. Đạt chuẩn nông thôn mới đã khó rồi, giữ các tiêu chí càng khó hơn. Lên nông thôn mới, thuận lợi là ý thức của người dân tốt hơn, sự trông chờ, ỷ lại giảm đi. Người dân cố gắng phấn đấu thoát nghèo và làm giàu chính đáng”.

Với quyết tâm xây dựng nông thôn mới ở vùng dân tộc thiểu số, đến nay bộ mặt nông thôn của Kon Plông, một trong những huyện khó khăn nhất tỉnh Kon Tum đã có những thay đổi vượt bậc. Hiện 9 xã, thị trấn của huyện đều có đường ô tô đi được 2 mùa mưa nắng. Trên 95% đường liên thôn, nội thôn, đường đi khu sản xuất được cứng hóa. Tất cả các thôn, làng trong huyện đều có điện lưới quốc gia. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 15%. Thu nhập, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng được cải thiện. Bên cạnh đó, tư duy trong lao động sản xuất của bà con ngày càng tiến bộ.

Cao Nguyên

(TTXVN)
Dân tộc Xơ Đăng Dân tộc Xơ Đăng

Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Ðrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu.

Tên gọi khác: Xê Đăng, Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.

Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.

Dân số: 169.501 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng Xơ Ðăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần với tiếng Hrê, Ba Na, Gié Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau. Chữ viết dùng hệ chữ cái La-tinh, mới hình thành cách đây mấy chục năm.

Lịch sử: Người Xơ Ðăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Hoạt động kinh tế: Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm làm ruộng theo lối sơ khai: làm đất bằng cách lùa đàn trâu dẫm quần và dùng cuốc đẽo từ gỗ (nay đã có cuốc lưỡi sắt)... Còn lại, kinh tế rẫy đóng vai trò chủ đạo, với công cụ và cách thức canh tác tương tự như những tộc người khác trong khu vực. Chặt cây bằng rìu và dao quắm hay xà gạc, đốt bằng lửa; chọc lỗ để tra hạt giống thì dùng gậy đẽo nhọn hay gậy có lưỡi sắt; làm cỏ bằng loại cuốc con có cán lấy từ chạc cây và cái nạo có lưỡi bẻ cong về một bên; thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Ngoài lúa, người Xơ Ðăng còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa, dứa, chuối, mía... Vùng người Ca Dong có trồng quế. Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn, chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ.


Nghề dệt vải có ở nhiều vùng. Nghề rèn phát triển ở nhóm Tơ Ðrá, họ biết chế sắt từ quặng để rèn. Một số nơi người Xơ Ðăng đã biết đãi vàng sa khoáng. Ðan lát phát triển, cung cấp nhiều vật dụng. Họ ưa thích trao đổi vật trực tiếp, nay đã dùng tiền.

Ăn: Người Xơ Ðăng ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thức kiếm được từ rừng; khi cúng bái mới có thịt gia súc, gia cầm. Phổ biến là món canh nấu rau hoặc măng lẫn thịt hay cá, ốc và các món nướng. Họ uống nước lã (nay nhiều người đã đun chín), rượu cần. Ðặc biệt rượu được chế từ loại kê chân vịt ngon hơn rượu làm từ gạo, sắn.

Một số nơi người Xơ Ðăng có tập quán ăn trầu cau. Nam nữ đều hút thuốc lá; có nơi, đồng bào đưa thuốc lá nghiền thành bột vào miệng thay vì hút trong tẩu.

Mặc: Nam đóng khố, ở trần. Nữ mặc váy, áo. Trời lạnh dùng tấm vải choàng người. Trước kia, nhiều nơi người Xơ Ðăng phải dùng y phục bằng vỏ cây. Nay đàn ông thường mặc quần áo như người Việt, áo nữ cũng là áo cánh, sơ mi, váy bằng vải dệt công nghiệp. Vải cổ truyền Xơ Ðăng có nền màu trắng mộc của sợi hoặc màu đen, hoa văn ít và chủ yếu thường dùng các màu đen, trắng, đỏ.

: Người Xơ Ðăng cư trú ở tỉnh Kon Tum và hai huyện Trà My, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam, huyện Tây Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh. Họ ở nhà sàn, trước kia nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung (nay phổ biến hình thức tách hộ riêng). Nhà ở trong làng được bố trí theo tập quán từng vùng: có nơi quây quần vây quanh nhà rông ở giữa, có nơi dựng lớp lớp ngang triền đất và không có nhà rông. Kỹ thuật làm nhà chủ yếu là sử dụng ngoàm và buộc dây, mỗi hàng cột chạy dọc nhà được liên kết thành một vì cột, mỗi ngôi nhà có một vì cột, mỗi ngôi nhà có hai vì cột.

Phương tiện vận chuyển: Gùi được dùng hàng ngày chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng, mỗi quai khoác vào một vai. Có các loại gùi khác nhau: đan thưa, đan dày, có nắp, không nắp, có hoa văn, không có hoa văn... Nam giới còn có riêng gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") hoặc gùi gần giống hình con ốc sên. Gùi ở các nhóm Xơ Ðăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu dáng, kỹ thuật đan.

Quan hệ xã hội: Từng làng có đời sống tự quản, đứng đầu là ông "già làng". Lãnh thổ của làng là sở hữu chung, trên đó mỗi người có quyền sở hữu ruộng đất để làm ăn. Tuy đã hình thành giàu - nghèo nhưng chưa có bóc lột một cách rõ rệt, xưa kia nô lệ mua về và người ở đợ không bị đối xử hà khắc. Quan hệ cộng đồng trong làng được đề cao.

Cưới xin: Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Ðám cưới có lễ thức cô dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một mâm cơm... để tượng trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân.

Ma chay: Cả làng chia buồn với tang chủ và giúp việc đám ma. Quan tài gỗ đẽo độc mộc. Những người chết bình thường được chôn trong bãi mộ chung của làng. Lệ tục cụ thể không hoàn toàn thống nhất giữa các nhóm. Không có lễ bỏ mả như người Ba Na, Gia Rai... Tục "chia của" cho người chết (đồ mặc, tư trang, công cụ, đồ gia dụng...) phổ biến.

Thờ cúng: Người Xơ Ðăng tin vào sức mạnh siêu nhiên, các "thần" hay "ma" được gọi là Kiak (Kia) hoặc "Ông", "Bà", chỉ một số nơi gọi là "Yàng". Các thần quan trọng như thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa, thần nước... Thần nước hiện thân là thuồng luồng, hoặc con "lươn" khổng lồ, hoặc con lợn mũi trắng. Thần lúa có dạng bà già xấu xí, tốt bụng, thường biến thành cóc. Trong đời sống và canh tác rẫy có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên, tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân.

Lễ tết: Quan trọng nhất là lễ cúng thần nước vào dịp sửa máng nước hàng năm, các lễ cúng vào dịp mở đầu năm làm ăn mới, mở đầu vụ trỉa lúa, khi lúa đến kỳ con gái, khi thu hoạch, các lễ cúng khi ốm đau, dựng nhà rông, làm nhà mới, khi con cái trưởng thành... Nhiều dịp sinh hoạt tôn giáo đồng thời có tính chất hội hè của cộng đồng làng, tiêu biểu là lễ trước ngày trỉa, lễ cúng thần nước, lễ có đâm trâu của làng cũng như gia đình. Tết dân tộc tổ chức trước sau tuỳ làng, nhưng thường trong tháng Giêng (dương lịch), kéo dài 3-4 ngày.

Lịch: Cách tính lịch một năm có 10 tháng, gắn với một chu kỳ làm rẫy, sau đó là thời gian nghỉ sản xuất kéo dài cho đến khi bước vào vụ rẫy mới. Mỗi tháng 30 ngày. Trong ngày được chia ra các thời điểm với tên gọi cụ thể. Phân biệt ngày tốt, ngày xấu, ví dụ: ngày cuối tháng nếu trồng ngô sẽ nhiều hạt, chặt tre nứa dùng sẽ không bị mọt...

Văn nghệ: Người Xơ Ðăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloongbút, trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, giàn ống hoạt động nhờ sức nước...). Có loại dùng giải trí thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Các loại nhạc cụ cụ thể và điệu tấu nhạc có sự khác nhau ít nhiều giữa các nhóm. Những điệu hát phổ biến là: hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa: có điệu múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ Xơ Ðăng phong phú và đặc sắc.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm