Phước Long được đánh giá là miền quê kiểu mẫu của tỉnh Bạc Liêu, là cánh chim đầu đàn trong xây dựng nông thôn mới (NTM), gắn với nâng cao đời sống, xây dựng nếp sống văn minh trên quê hương NTM, rồi NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu. Từ một huyện khó khăn thuộc địa bàn vùng sâu vùng xa, qua xây dựng nông thôn mới, Phước Long vụt chuyển mình với những gam màu tươi sáng của nhịp sống mới, với nhiều mô hình sản xuất kiểu mẫu, mang tính bền vững… giúp đời sống người dân được nâng cao.
Đời sống mới trên nông thôn mới
Di chuyển trên Quốc lộ (QL) 1A hướng Bạc Liêu - Cà Mau, qua khỏi cầu số 2, rẻ phải, qua cổng chào huyện Phước Long, có cảm giác như lạc vào một miền quê khác so với phần còn lại của tỉnh Bạc Liêu. Trục đường Vĩnh Thanh - Phước Long đã được nâng cấp, mở rộng gấp đôi với những ngôi nhà khang trang, ngăn nắp, gọn gàng hai bên đường. Như một chỉ dấu tự nhiên báo hiệu sắp đến thị trấn huyện lỵ Phước Long, vẫn còn đó những luống rau cần nước xanh mướt ngút ngàn, trở thành đặc sản của người dân nơi đây, được trồng trong nhà lưới theo quy trình an toàn sinh học, sản phẩm đã đặt chân vào chuỗi của hàng của hệ thống Bách Hóa Xanh, sắp được công nhận chỉ dẫn địa lý sản phẩm của đồng đất nông thôn mới kiểu mẫu Vĩnh Thanh (Phước Long).
Ông Đặng Tiến Út, Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Phước Long, cho biết: Đề án “Đẩy mạnh xây dựng xã đạt chuẩn NTM nâng cao, tiến tới công nhận xã NTM kiểu mẫu trên địa bàn giai đoạn 2018-2020” và đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” được huyện triển khai quyết liệt, từng bước xây dựng Phước Long trở thành vùng kinh tế trọng điểm ở vùng Bắc QL1A của tỉnh Bạc Liêu.
Từ một huyện nghèo, khó khăn, Phước Long đã có bước phát triển vượt bậc, vươn lên vị trí thứ 3 trong tỉnh về kinh tế. Là 1 trong 5 huyện của cả nước được Trung ương chọn làm điểm chỉ đạo xây dựng NTM, sau khi được công nhận đạt chuẩn NTM vào năm 2017, những năm qua, Phước Long luôn đi đầu trong xây dựng NTM nâng cao. Đến năm 2019, huyện Phước Long có 4 xã được công nhận xã NTM nâng cao, 3 xã còn lại đang làm thủ tục công nhận trong năm 2020. Với 67/67 ấp đạt chuẩn ấp NTM kiểu mẫu ở thời điểm hiện nay, Phước Long phấn đấu có 7/7 xã được công nhận đạt chuẩn NTM kiểu mẫu trong thời gian tới.
Nhờ đẩy mạnh phát triển kinh tế gắn đa dạng hóa mô hình sản xuất vùng chuyển đổi, chú trọng nâng cao đời sống của người dân, huyện Phước Long đã tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng với các mô hình sản xuất kết hợp đạt hiệu quả cao trên cả 3 vùng sinh thái mặn, ngọt, lợ. Trong những năm qua, kinh tế của huyện đạt mức tăng trưởng khá và tăng dần theo từng năm, từ 8,25% năm 2018 lên 11% năm 2019. Thu nhập bình quân đầu người cũng tăng từ 22 triệu đồng/năm thời điểm mới bắt đầu xây dựng NTM lên gần 59 triệu đồng/năm ở thời điểm hiện nay.
Ngoài ra, sau khi thực hiện chuyển đổi ngành nghề cho lao động thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo, đến nay, 90% số lao động ở các hộ nghèo và cận nghèo của huyện Phước Long đều có việc làm ổn định. Từ đó, có đến gần 3.000 hộ thoát nghèo, hơn 3.400 hộ thoát cận nghèo, vươn lên ổn định cuộc sống. Tính đến cuối năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo của Phước Long giảm xuống còn 0,51% với 154 hộ.
Trong năm 2020, Phước Long tiếp tục tập trung cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, xóa nghèo bền vững, chăm lo cuộc sống của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình xây dựng NTM, phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo còn 0,35%, hộ cận nghèo dưới 1%.
Hướng tới miền quê đáng sống
Theo ông Lê Văn Tần, Chủ tịch UBND huyện Phước Long, ngay từ những năm 2015-2017, Phước Long đã được chọn để triển khai thí điểm mô hình trồng lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản như một đại diện cho vùng sinh thái lợ của tỉnh. Thành công của dự án với điểm nhấn là mô hình sản xuất lúa-tôm kết hợp đã được nhân rộng ra cả vùng Bắc Quốc lộ 1A của tỉnh Bạc Liêu, tạo nên vùng nguyên liệu tôm sinh thái rộng lớn, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu tôm sạch cho tất cả các thị trường. Đồng thời, mở hướng đi mới cho nông dân vùng chuyển đổi ở phía Bắc QL1A trong phát triển sản xuất theo hướng thích ứng với biển đổi khí hậu, bảo vệ môi trường.
Nhờ vậy, Phước Long cùng với 3 đơn vị khác tạo thành tứ giác kinh tế, động lực phát triển kinh tế của tỉnh Bạc Liêu. Với những điều kiện thuận lợi như có hệ thống giao thông quan trọng kết nối, hệ thống kênh xáng sầm uất, 100% đường nông thôn trên địa bàn được trải nhựa, bê-tông hóa, hệ thống cầu được đầu tư hoàn thiện đã tạo nên một chuỗi giao thông liên hoàn kết nối với nhiều tỉnh, thành trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Trong khi đó, bà con nông dân ở Phước Long được khuyến khích nhân rộng 18 mô hình sản xuất bền vững, đạt hiệu quả kinh tế cao như mô hình kết hợp tôm-lúa, kết hợp tôm sú-lúa-tôm càng xanh, kết hợp tôm sú-cua-cá, sản xuất rau cải, trồng rau cần đước trong nhà lưới, trồng bắp, nuôi le le, cá sấu, lươn, mô hình kết hợp tôm-lúa-màu trên bờ liếp và trồng bồn bồn kết hợp nuôi cá… Phước Long hôm nay không chỉ có tỷ phú cá sấu mà còn có cả tỷ phú le le, tỷ phú từ mô hình tôm-cua-cá kết hợp sản xuất lúa chất lượng cao…
Ông Lê Văn Tần, Chủ tịch UBND huyện Phước Long, trăn trở: “Tôi cho rằng, vùng quê thay da đổi thịt, đi lên khá giả như hôm nay vẫn chưa đủ mà đòi hỏi an ninh trật tự, an toàn xã hội phải luôn được giữ vững, để quê hương chúng ta thực sự yên bình, mọi người yên tâm phát triển sản xuất và cống hiến cho NTM. Khi đó, Phước Long sẽ xứng đáng là một vùng quê đáng sống…” .
Theo Chủ tịch UBND huyện Phước Long Lê Văn Tần, vấn đề quan trọng sắp tới là thu nhập của hộ dân không những tăng lên mà phải là thu nhập bền vững. Để làm được điều đó, huyện sẽ tạo điều kiện tối đa để người dân đa dạng sinh kế, có nhiều nguồn thu nhập từ chính ao nuôi, mảnh ruộng, thửa vườn, trang trại, cơ sở kinh doanh... của mình. Xây dựng NTM nâng cao, NTM kiểu mẫu được Phước Long xác định là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, là cách tốt nhất để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn, giúp thành thị và nông thôn xích lại gần nhau, cuộc sống của người dân ngày càng phát triển toàn diện, ngày càng sung túc, ấm no.
Theo đó, Phước Long hướng tới mục tiêu có trên 95% nhà ở của người dân đạt tiêu chuẩn cùa Bộ Xây dựng, 100% các công trình hạ tầng kinh tế, xã hội được đầu tư đạt chuẩn quy định, phù hợp với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp-nông thôn, đảm bảo các yêu cầu về phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu; tỷ lệ hộ sử dụng điện an toàn đạt từ 99% trở lên; 98% người dân tham gia bảo hiểm y tế (BHYT), tiến tới thực hiện BHYT toàn dân.
Bên cạnh đó, huyện cũng đầu tư xây dựng mới 8 trạm cấp nước sạch tập trung nhằm đảm bảo đáp ứng 100% nhu cầu sử dụng nước sạch cho người dân; cảnh quan, không gian nông thôn sáng-xanh-sạch-đẹp, các tuyến đường xã, ấp đều có hệ thống thoát nước và được trồng cây xanh tạo bóng mát hoặc trồng hoa, cây cảnh toàn tuyến. Bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc trên địa bàn được gìn giữ và phát huy.
Ông Đặng Tiến Út - Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch Hội đồng Nhân dân huyện Phước Long nhấn mạnh: “Năm 2020 và những năm tiếp theo, Phước Long phấn đấu xây dựng khắp nơi trên địa bàn huyện đều trở thành vùng quê đáng sống. Đó là một vùng quê không có hộ nghèo, ai ai cũng có công ăn việc làm, có thu nhập cao và ổn định. Một vùng quê thực sự thay da đổi thịt, đi lên khá giả”.
Bài và ảnh: Tấn Đạt, Thanh Cường, Anh Dũng
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn