Để kết nối, thúc đẩy quảng bá, giới thiệu về văn hóa, phong tục tập quán của đồng bào dân tộc Chăm Islam đến với du khách, mới đây, huyện biên giới An Phú (tỉnh An Giang) đã phát triển mô hình chợ quê “Làng Chăm Đa Phước”. Mô hình đã thu hút đông đảo người dân, du khách đến tham quan, mua sắm, thưởng thức những món ăn truyền thống; qua đó, góp phần thu hút khách du lịch, phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho người dân địa phương.
Chợ quê “Làng Chăm Đa Phước” nằm trong Khu sinh thái Jiao Hary (thuộc khóm Hà Bao 2, thị trấn Đa Phước, huyện An Phú, tỉnh An Giang) - nơi có những thánh đường Hồi giáo Islam tuyệt đẹp cùng nét văn hóa đặc sắc, hấp dẫn. Từ khoảng 7 giờ đến 21 giờ ngày thứ Bảy và Chủ nhật hằng tuần, chợ quê “Làng Chăm Đa Phước” lại “nhóm họp” tại Khu sinh thái Jiao Hary với hơn 60 gian hàng là các sản phẩm nông - lâm sản, thủ công mỹ nghệ, sản phẩm OCOP, các loại bánh truyền thống của người Chăm Islam An Giang. Tiểu thương ở đây phần lớn là người dân địa phương, hàng quán là những căn chòi nhỏ đơn sơ với mái lá, vách tre. Những món hàng được bày bán đều do người dân tự tay làm ra hay nuôi, trồng.
Nhiều du khách cho rằng, chợ quê “Làng Chăm Đa Phước” là “thiên đường” của ẩm thực bởi có rất nhiều món ăn truyền thống, vừa dân dã, vừa đặc sắc, riêng có của người Chăm Islam An Giang như: cà ri bò, tung lò mò, bánh paykgah, bánh saykya, cơm truyền thống… Chị Lê Thu Hà (du khách đến từ Hà Nội) chia sẻ, lần đầu tiên được bạn mời vào An Giang chơi, chị rất ấn tượng khi đến với chợ quê “Làng Chăm Đa Phước” bởi không gian thoáng mát. Đặc biệt, đến đây, chị có cảm giác như đi du lịch các nước Trung Đông với những thánh đường tuyệt đẹp và các món ăn hấp dẫn.
“Đến chợ quê “Làng Chăm Đa Phước”, không chỉ được tham quan, trải nghiệm, thưởng thức các món ăn ngon mà còn được ghé thăm thánh đường Hồi giáo nơi người Chăm Islam cầu nguyện là một trải nghiệm rất thú vị, khó quên. Thiết nghĩ, ai cũng nên trải nghiệm một lần nếu có dịp đến An Giang”- chị Hà bày tỏ.
Ông Abdul Alim, Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại và Du lịch làng Chăm An Giang cho biết, anh là người con của làng Chăm An Giang nói chung và thị trấn Đa Phước nói riêng, muốn cống hiến một phần công sức để xây dựng quê hương ngày càng phát triển. Nhận thấy tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng nơi đây, Công ty đã đầu tư xây dựng Khu du lịch sinh Jiao Hary để kết nối, quảng bá rộng rãi về văn hóa truyền thống, ẩm thực của người Chăm đến khách du lịch trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho người dân có “công ăn việc làm” ổn định, góp phần cùng địa phương phát triển kinh tế. Qua đó, duy trì, gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống của đồng bào dân tộc Chăm Islam An Giang…
“Chợ đang duy trì vào thứ Bảy và Chủ nhật hằng tuần; dự kiến dịp Tết Nguyên đán sẽ mở xuyên suốt từ 28 tháng Chạp đến mùng 7 Tết” - ông Abdul Alim cho biết thêm.
Lần đầu tiên đến với chợ quê “Làng Chăm Đa Phước”, chị Nguyễn Thị Hồng Cẩm (ở Long Xuyên, An Giang) cho biết, chị đi du lịch nhiều nơi cả trong nước và quốc tế nhưng chưa nơi nào có được trải nghiệm độc đáo như ở chợ quê này. “Lạc vào chợ, khách được “bao no” với giá cả bình dân. Từ những món ăn mang đậm văn hóa ẩm thực của người Hồi giáo như: món cà ri bò cay nồng, tung lò mò béo ngậy… đến các món bánh paykgah, bánh saykya, cơm truyền thống… Tất cả đều ngon đến nao lòng, khiến ai cũng mê mẩn không muốn về”- chị Thư hào hứng chia sẻ.
Ngoài ra, ở phiên chợ quê còn có nhiều hoạt động vui chơi, giải trí như: bơi thuyền, ca múa nhạc trên đảo cá chép, trải nghiệm mặc trang phục người Chăm, phục dựng lễ cưới người Chăm Islam An Giang… Ông Lê Trung Hiếu, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư An Giang cho biết, phiên chợ quê “Làng Chăm Đa Phước” chính thức mở cửa đón khách từ ngày 20/1/2024 đến nay. Phiên chợ phục vụ từ 7 giờ đến 21 giờ tối thứ Bảy và Chủ nhật hàng tuần. Đến nay, chợ quê đã trở thành một sản phẩm du lịch mới của Đa Phước, An Phú nói riêng và An Giang nói chung. Qua đó, quảng bá hình ảnh người An Giang, trong đó có văn hóa của đồng bào dân tộc Chăm đến du khách gần xa…
Theo Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư An Giang, việc hình thành phiên chợ quê “Làng Chăm Đa Phước” gắn liền với mô hình “Làng bè đa sắc màu” tại ngã ba sông Châu Đốc sẽ trở thành điểm nhấn độc đáo, thú vị ở của du lịch An Giang. Đây chắc chắn là điểm đến đặc biệt thu hút nhiều khách du lịch đến với huyện biên giới An Phú nói riêng, An Giang nói chung trong thời gian tới.
Công Mạo
Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời...
Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc.
Dân số: 161.729 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô - Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).
Lịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm pa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc, Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.
Hoạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.
Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.
Ăn: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.
Mặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.
Ở: Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.
Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niê và Mlô ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...
Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.
Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ.
Nhà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà.
Lễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.
Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.
Học: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí, kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo.
Văn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp.
Chơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ, chơi trò bịt mắt bắt dê.
Theo cema.gov.vn