Theo nhận xét của các chuyên gia tham dự Diễn đàn, Việt Nam là một trong những quốc gia có mức bình quân ruộng đất theo đầu người thấp nhất thế giới. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp bình quân đầu người ở Việt Nam là 0,25 ha, trong khi đó trên thế giới là 0,52 ha và trong khu vực là 0,36 ha. Nền nông nghiệp Việt Nam được phát triển chủ yếu dựa vào khoảng 10 triệu hộ nông dân cá thể với trên 76 triệu thửa và mảnh ruộng nhỏ lẻ, phân tán. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất cho việc phát triển nền nông nghiệp hiện đại và bền vững trên cơ sở hợp tác, liên kết giữa doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, với các hộ nông dân có kế hoạch xây dựng cánh đồng lớn, vùng sản xuất tập trung công nghệ cao dưới tác động của thị trường, công nghiệp, hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu.
Tại Việt Nam, chủ trương tích tụ và tập trung ruộng đất được đặt ra từ nhiều năm nay nhưng kết quả thực hiện chủ trương đó không đạt được mục tiêu kỳ vọng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là ở chỗ thị trường đất nông nghiệp chưa phát triển do các bất cập trong chính sách đất nông nghiệp hiện hành.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Trọng Khải, nguyên Hiệu trưởng Trường cán bộ Quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn II, cho rằng định hướng hoàn thiện chính sách đất đai để phát triển nông nghiệp cần phải dựa trên những tư duy kinh tế mới, hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp theo cơ chế kinh tế thị trường. Xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường là các trạng trại trồng cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, hải sản không ngừng tăng quy mô ruộng đất phù hợp với tầm hạn quản lý của chủ trang trại để có lợi thế kinh tế theo quy mô và áp dụng công nghệ mới có hiệu quả.
Việc “Dồn điền, đổi thửa” không phải là hình thức tích tụ và tập trung ruộng đất, vì nó không làm tăng quy mô ruộng đất của một nông hộ mà chỉ làm giảm số lượng thửa đất. Vùng sản xuất chuyên canh không phụ thuộc và địa giới hành chính mà phụ thuộc vào vùng lãnh thổ sinh thái tự nhiên và nhân văn. Do vậy, chỉ có Chính phủ mới có đủ trách nhiệm và quyền hạn chỉ đạo phát triển vùng sản xuất chuyên môn hóa với những sản phẩm chiến lược của mỗi vùng. Các tỉnh không thể tự nguyện liên kết với nhau để xây dựng vùng sản xuất chuyên môn hóa do sự khác biệt về lợi ích.
Đề cập đến các rào cản của chính sách đất đai, Tiến sĩ Trần Công Thắng, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, cho biết, mức phí và thuế liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp bị áp chung như các bất động sản khác. Doanh nghiệp tư nhân trong nước không được giao đất có thu tiền sử dụng đất nông nghiệp, mà chỉ được thuê đất để đầu tư sản xuất nông nghiệp; quyền tài sản đối với đất nông nghiệp chưa được đảm bảo như các loại đất khác. Chưa có quy định cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất linh hoạt giữa các loại đất trong nội bộ ngành nông nghiệp, chưa có các quy định cụ thể về hướng dẫn việc chuyển đổi mục đích sử đụng đất từ nhóm đất nông nghiệp sang đất cho chăn nuôi, vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thuê lại hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp quy mô lớn của nông dân.
Tiến sĩ Trần Công Thắng đề xuất bỏ hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử đụng đất nông nghiệp và sử dụng hạn mức nhận chuyển nhượng hiện nay, làm mức khởi điểm để đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo kiểu lũy tiến; quy định và giám sát chặt chẽ diện tích tối thiểu để tránh tách thửa gây manh mún ruộng đất; giảm thuế, phí liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp để tăng cường chính thức hóa giao dịch đất nông nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các khu/cụm/công viên/trung tâm công nghiệp-dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp thông qua việc thuê đất nông nghiệp hoặc liên kết với trang trại, hợp tác xã. Hệ thống quản lý đất điện tử cần được xây dựng để cung cấp thông tin số hóa về quyền sử dụng đất và giao dịch nhằm minh bạch thị trường…
Nhiều học giả đồng thuận cho rằng Nhà nước nên quy định chỉ sử dụng một hình thức là thuê đất, bãi bỏ quy định về thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp; xóa bỏ sự phân biệt về quyền cho các chủ thể sử dụng đất; thay thế quyền chuyển đổi và quyền chuyển nhượng bằng quyền mua bán; công bố rộng rãi thông tin về từng thửa đất trên mạng internet; thí điểm bãi bỏ hoặc mở rộng hạn điền trước khi chính thức sửa đổi Luật Đất đai.
Tại Việt Nam, chủ trương tích tụ và tập trung ruộng đất được đặt ra từ nhiều năm nay nhưng kết quả thực hiện chủ trương đó không đạt được mục tiêu kỳ vọng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là ở chỗ thị trường đất nông nghiệp chưa phát triển do các bất cập trong chính sách đất nông nghiệp hiện hành.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Trọng Khải, nguyên Hiệu trưởng Trường cán bộ Quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn II, cho rằng định hướng hoàn thiện chính sách đất đai để phát triển nông nghiệp cần phải dựa trên những tư duy kinh tế mới, hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp theo cơ chế kinh tế thị trường. Xu thế tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường là các trạng trại trồng cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, hải sản không ngừng tăng quy mô ruộng đất phù hợp với tầm hạn quản lý của chủ trang trại để có lợi thế kinh tế theo quy mô và áp dụng công nghệ mới có hiệu quả.
Việc “Dồn điền, đổi thửa” không phải là hình thức tích tụ và tập trung ruộng đất, vì nó không làm tăng quy mô ruộng đất của một nông hộ mà chỉ làm giảm số lượng thửa đất. Vùng sản xuất chuyên canh không phụ thuộc và địa giới hành chính mà phụ thuộc vào vùng lãnh thổ sinh thái tự nhiên và nhân văn. Do vậy, chỉ có Chính phủ mới có đủ trách nhiệm và quyền hạn chỉ đạo phát triển vùng sản xuất chuyên môn hóa với những sản phẩm chiến lược của mỗi vùng. Các tỉnh không thể tự nguyện liên kết với nhau để xây dựng vùng sản xuất chuyên môn hóa do sự khác biệt về lợi ích.
Đề cập đến các rào cản của chính sách đất đai, Tiến sĩ Trần Công Thắng, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, cho biết, mức phí và thuế liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp bị áp chung như các bất động sản khác. Doanh nghiệp tư nhân trong nước không được giao đất có thu tiền sử dụng đất nông nghiệp, mà chỉ được thuê đất để đầu tư sản xuất nông nghiệp; quyền tài sản đối với đất nông nghiệp chưa được đảm bảo như các loại đất khác. Chưa có quy định cho phép chuyển đổi mục đích sử dụng đất linh hoạt giữa các loại đất trong nội bộ ngành nông nghiệp, chưa có các quy định cụ thể về hướng dẫn việc chuyển đổi mục đích sử đụng đất từ nhóm đất nông nghiệp sang đất cho chăn nuôi, vai trò của Nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp thuê lại hoặc nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp quy mô lớn của nông dân.
Tiến sĩ Trần Công Thắng đề xuất bỏ hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử đụng đất nông nghiệp và sử dụng hạn mức nhận chuyển nhượng hiện nay, làm mức khởi điểm để đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo kiểu lũy tiến; quy định và giám sát chặt chẽ diện tích tối thiểu để tránh tách thửa gây manh mún ruộng đất; giảm thuế, phí liên quan đến chuyển nhượng đất nông nghiệp để tăng cường chính thức hóa giao dịch đất nông nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các khu/cụm/công viên/trung tâm công nghiệp-dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp thông qua việc thuê đất nông nghiệp hoặc liên kết với trang trại, hợp tác xã. Hệ thống quản lý đất điện tử cần được xây dựng để cung cấp thông tin số hóa về quyền sử dụng đất và giao dịch nhằm minh bạch thị trường…
Nhiều học giả đồng thuận cho rằng Nhà nước nên quy định chỉ sử dụng một hình thức là thuê đất, bãi bỏ quy định về thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp; xóa bỏ sự phân biệt về quyền cho các chủ thể sử dụng đất; thay thế quyền chuyển đổi và quyền chuyển nhượng bằng quyền mua bán; công bố rộng rãi thông tin về từng thửa đất trên mạng internet; thí điểm bãi bỏ hoặc mở rộng hạn điền trước khi chính thức sửa đổi Luật Đất đai.
Minh Nguyệt