Xơ mướp tưởng chừng không có nhiều giá trị về kinh tế, thế nhưng, anh Tạ Quý Tôn, ở xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, lại biến chúng trở thành những bộ sản phẩm đồ gia dụng hữu ích, xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước châu Âu, mang lại giá trị kinh tế cao.
Đang làm việc ở một ngân hàng lớn tại Hà Nội với mức thu nhập ổn định, năm 2019, anh Tạ Qúy Tôn xin nghỉ việc, “bỏ phố về làng” khiến nhiều người bất ngờ. Anh Tôn cho biết, lúc đầu nhiều người không ủng hộ quyết định này bởi công việc của anh đang là niềm mơ ước của nhiều người, trong khi đó trồng mướp lấy xơ còn khá lạ lẫm với người dân địa phương nên tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Thời gian học tập và làm việc tại Australia, anh Tôn nhận thấy rất nhiều khách sạn lớn ở đây sử dụng các sản phẩm từ xơ mướp để làm bông tắm, đai chà lưng và những sản phẩm gia dụng ở nhà bếp. Tuy nhiên, những sản phẩm này nguồn hàng không ổn định, trong khi đó ở Việt Nam trồng rất nhiều mướp, xơ mướp chủ yếu dùng để rửa chén, bát hoặc không dùng. Vì thế, anh Tôn đã nảy sinh ý tưởng làm những sản phẩm từ xơ mướp để xuất khẩu.
Đầu năm 2019, anh Tôn đã thuê lại 2 ha đất tại địa phương để trồng mướp lấy xơ. Tuy nhiên, ban đầu anh gặp khá nhiều khó khăn để tìm được loại mướp cho xơ tốt nhất. Ban đầu, anh nghĩ cứ trồng loại mướp ăn bình thường là có thể lấy xơ được nên đã lấy rất nhiều giống mướp về trồng. Tuy nhiên, những loại mướp này cho ra trái nhỏ, xơ không mướt, không mềm nên chất lượng xơ rất kém. Không nản trí, anh đã lên mạng tìm hiểu và đã tìm được giống mướp trái to, thẳng, khi già xơ dày và mịn, rất phù hợp để trồng tại vùng đất Thuận Thành.
Để tạo ra các sản phẩm như bông tắm, đai chà lưng, lót giày và những sản phẩm gia dụng… từ xơ mướp, anh Tôn đã xây dựng thêm khu gia công sản phẩm với nhiều loại máy móc như máy may, máy ép, máy cắt. Sản phẩm từ xơ mướp đều được anh Tôn làm theo phương pháp thủ công, do đó mỗi sản phẩm đều có tính độc đáo riêng.
Theo anh Tôn, để làm ra các sản phẩm đều phải là mướp già, khô, sau đó được loại bỏ lớp vỏ, hạt và chỉ giữ lại xơ mướp. Tùy vào từng sản phẩm mà xơ mướp được cán dày hay mỏng. Với tiêu chí đặt ra là sản phẩm thân thiện môi trường nên khi sản xuất không dùng chất tẩy trắng hoặc ngâm hóa chất bảo quản.
Muốn tạo ra những sản phẩm có mẫu mã đẹp, độ kết dính, anh Tôn sử dụng phương pháp may bằng chỉ, sợi đay và vải thay vì sử dụng keo dán nên vẫn bảo đảm vẻ đẹp thẩm mỹ và sự mộc mạc.
“Xơ mướp phải có độ dày, xơ trắng và mịn thì mới có thể sử dụng được. Khi chọn được giống phù hợp thì việc chăm sóc cũng cần chú trọng để làm sao trái mướp phải to, dài, đều, không bị sâu thì làm ra sản phẩm mới đẹp và được khách hàng ưu chuộng. Đặc biệt, mướp khi trồng không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nên người sử dụng rất yên tâm”, anh Tôn nói.
Hiện anh Tôn chủ yếu cung cấp các sản phẩm làm từ xơ mướp tại thị trường Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước ở châu Âu, với 15 dòng sản phẩm chủ yếu là bộ sản phẩm cho nhà bếp, nhà tắm và đồ dùng cá nhân như lót giày, giày dép đi trong nhà với giá bán trung bình từ 4-9 USD/sản phẩm.
Anh Tôn cho hay, anh luôn xác định chất lượng sản phẩm phải đặt lên hàng đầu nên năm đầu tiên khởi nghiệp các sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là để “chào hàng”. Chính tính độc đáo của sản phẩm xơ mướp tự nhiên đã “chinh phục” các thị trường khó tính nước ngoài. Đến nay, trung bình mỗi tháng anh xuất khẩu từ 3-5 đơn hàng sang thị trường nước ngoài với trị giá từ 30.000-40.000 USD/tháng.
Đáp ứng nhu cầu của đối tác, ngoài diện tích 2 ha trồng mướp lấy xơ tại xã Nguyệt Đức, anh còn mở rộng vùng trồng nguyên liệu tại huyện Lương Tài, Gia Bình và một số tỉnh thành phía Bắc như Nam Định, Hải Dương với tổng diện tích hơn 30 ha… Dự kiến, năm 2025, anh Tôn sẽ xây dựng vùng nguyên liệu khoảng 300 ha để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu.
Theo anh Tôn, thực tế ở nước ta hiện nay cũng đã có nhiều tổ chức, cá nhân xây dựng mô hình sản xuất các sản phẩm từ xơ mướp. Tuy nhiên, quy mô còn mang tính chất nhỏ lẻ chưa đáp ứng nhu cầu của thị trường. Do đó, anh luôn hướng tới xây dựng một quy trình hoàn chỉnh từ việc xây dựng vùng nguyên liệu, sơ chế đến tìm đầu ra cho sản phẩm.
Thời gian tới, anh Tôn tiếp tục phát triển danh mục trên 20 đầu sản phẩm để xuất khẩu sang thị trường nước ngoài; đồng thời chào bán một số sản phẩm làm từ xơ mướp cho người tiêu dùng trong nước, lan tỏa sâu hơn thông điệp sản xuất xanh đến với người tiêu dùng. Các ngành chức năng đang hướng dẫn anh tham gia chương trình “Mỗi xã phường một sản phẩm” (OCOP).
Khi tham gia chương trình OCOP, sản phẩm sẽ được hỗ trợ tuyên truyền, quảng bá, xây dựng bộ nhận diện nhãn hiệu OCOP Bắc Ninh; xúc tiến thương mại và liên kết tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, anh còn hỗ trợ triển khai các hình thức tổ chức sản xuất; huy động nguồn lực tài chính, nguồn vốn để thực hiện.
Đánh giá về hiệu quả, bà Phùng Thị Hồng Nhung, Trung tâm Khuyến nông và phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao tỉnh Bắc Ninh nhận xét, mô hình này không chỉ tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường mà còn mang lại hiệu quả kinh tế cao. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có nhiều diện tích đất nông nghiệp bỏ hoang hoặc canh tác kém hiệu quả. Do vậy, mô hình trồng mướp lấy xơ rất phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp bền vững của tỉnh Bắc Ninh.
Quang Nhiều