Vui Lễ hội mừng lúa mới với đồng bào dân tộc Xơ Đăng

Vui Lễ hội mừng lúa mới với đồng bào dân tộc Xơ Đăng

Với đồng bào dân tộc Xơ Đăng (buôn Hring, xã Ea H’đing, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk), Lễ hội mừng lúa mới (Tết cơm mới) có ý nghĩa quan trọng, là lễ cúng lớn nhất trong năm và được bà con háo hức mong chờ. Ngày đầu năm mới 2024, đông đảo nhân dân và du khách đã tập trung tại nhà văn hóa cộng đồng buôn Hring để cùng tham gia lễ hội.

Vui Lễ hội mừng lúa mới với đồng bào dân tộc Xơ Đăng ảnh 1Nhân dân buôn Hring đánh chiêng bài đón khách mời du khách tụ hội về cùng dự lễ. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN

Để chuẩn bị cho Lễ hội mừng lúa mới, những ngày qua, người dân buôn Hring, xã Ea H'đing đã dọn dẹp nhà cửa, dựng cây nêu, chuẩn bị nguyên vật liệu để làm các món ăn truyền thống. Nhà nhà cùng góp sức, có sự phân công cụ thể từ việc ủ rượu cần, tập văn nghệ, nướng cơm lam, làm thịt lợn…

Trong nhà sinh hoạt cộng đồng, cây nêu đặt giữa sân, bên dưới bày biện lễ vật. Khi tiếng cồng chiêng nổi lên bài đón khách, người dân và du khách tụ hội về sân nhà sinh hoạt cộng đồng để cùng dự lễ. Sau khi lễ vật được chuẩn bị xong, già làng tiến hành nghi thức cúng, cảm tạ trời đất, mời thần linh, tổ tiên, ông bà về dự. Lời khấn của già làng có nội dung cầu mong sang năm lúa lên đẹp như cỏ tranh ngoài rừng, xanh như mía trong vườn, mưa thuận gió hòa, người người khỏe mạnh, nhà nhà yên vui, cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa màng tươi tốt bội thu, vạn vật sinh sôi nảy nở, đất nước yên vui, nhân dân ấm no, hạnh phúc, con cháu học hành nên người…

Vui Lễ hội mừng lúa mới với đồng bào dân tộc Xơ Đăng ảnh 2Già làng tiến hành nghi thức cúng Lễ hội mừng lúa mới. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN
Vui Lễ hội mừng lúa mới với đồng bào dân tộc Xơ Đăng ảnh 3Đeo chuông gió lên cây nêu trước khi làm lễ để nhằm mục đích xua đuổi chim phá hoại mùa màng. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN
Vui Lễ hội mừng lúa mới với đồng bào dân tộc Xơ Đăng ảnh 4Đông đảo nhân dân và du khách vui tại Lễ hội. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN

Sau phần lễ, già làng khai vị rượu cần, mời bà con và du khách cùng thưởng thức rượu cần và các món ăn truyền thống. Phần hội cũng bắt đầu diễn ra với nhiều tiết mục đặc sắc như biểu diễn nhạc cụ dân tộc, nhân dân và du khách cùng múa xoang...

Ông Joang Chă, Bí thư Chi bộ buôn Hring cho biết, người Xơ Đăng đến vùng đất màu mỡ xã Ea H’đing để lập buôn mới, xây dựng, phát triển cuộc sống vào năm 1988. Ngày trước, Tết cơm mới của người Xơ Đăng chỉ tổ chức trong từng gia đình, từ nhà này sang nhà khác, kéo dài từ tháng 10 đến tháng 12 dương lịch. Từ năm 1994 đến nay, Tết cơm mới đã trở thành lễ hội lớn, tổ chức chung trong cả cộng đồng buôn và chỉ tổ chức trong một ngày Tết Dương lịch 1/1. Nhà nhà đều chuẩn bị các món ăn, đem ra nhà sinh hoạt cộng đồng để cùng nhau thưởng thức.

Vui Lễ hội mừng lúa mới với đồng bào dân tộc Xơ Đăng ảnh 5Phần hội bắt đầu với tiết mục văn nghệ mang đậm truyền thống dân tộc. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN

Lễ hội mừng lúa mới nhằm giữ gìn bản sắc phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Xơ Đăng, là hoạt động quan trọng trong đời sống tâm linh của người Xơ Đăng nhằm cảm tạ thần linh đã phù hộ cho mùa màng bội thu. Lễ hội là dịp để đồng bào ngồi với nhau ôn lại một năm lao động vất vả, trao đổi kinh nghiệm sản xuất và chúc phúc cho nhau sang năm mới sức khỏe dồi dào, tràn đầy hạnh phúc, mùa màng bội thu.

Có mặt tại nhà văn hóa cộng đồng buôn Hring, chị H’Ben Mlô, buôn Jok, xã Ea Hđing cho biết, dân tộc Ê Đê và dân tộc Xơ Đăng có nhiều nét tương đồng về văn hóa. Từ nhỏ, chị đã được tham gia Lễ hội mừng lúa mới ở buôn Hring. Đến nay, cứ vào ngày Tết Dương lịch, chị cùng gia đình lại hào hứng tham gia Lễ hội. Không chỉ dân tộc Xơ Đăng, các dân tộc anh em khác cùng tụ họp về vui ngày hội, chúc nhau sức khỏe, nỗ lực duy trì những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của các dân tộc.

Ngày đầu năm mới 2024, trong tiếng cồng, tiếng chiêng rộn ràng, Lễ hội mừng lúa mới của đồng bào Xơ Đăng ở buôn Hring, xã Ea H’đing, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk đã thu hút đông đảo du khách xa gần về chung vui. Không khí nhộn nhịp, ấm tình đoàn kết khiến nhân dân và du khách hào hứng, nhiều hy vọng lạc quan vào năm mới.

Vui Lễ hội mừng lúa mới với đồng bào dân tộc Xơ Đăng ảnh 6Sau phần lễ, nhân dân và du khách cùng thưởng thức các món ăn truyền thống. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN

Ông Trần Thanh, du khách đến từ thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk cho biết, ngày đầu năm mới, cùng gia đình và bạn bè vào buôn tham dự Lễ hội, ông rất háo hức, cảm nhận một mùa Xuân mới đã về. Nhóm của ông Thanh muốn trải nghiệm các hoạt động tại Lễ hội để tiến tới kết nghĩa với buôn, hỗ trợ buôn các hoạt động an sinh xã hội trong thời gian tới.

Theo chia sẻ của chị Dương Hà, du khách đến từ thành phố Đà Nẵng, được tham gia Lễ hội và cùng nhân dân buôn Hring làm cơm lam, nướng thịt, chị cảm thấy rất vui. Chị Hà khá bất ngờ vì Lễ hội thu hút đông đảo nhân dân và du khách tham gia. Điều khiến chị ấn tượng là yếu tố cộng đồng tại Lễ hội, người dân đều góp công, góp sức và cùng tham gia vào các hoạt động, thể hiện là chủ thể văn hóa.

Xã Ea H'đing hiện có 13 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm khoảng 70% dân số toàn xã. Phó Chủ tịch UBND xã Ea H'đing (huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk) Y Rin Niê cho biết, nhân dân trên địa bàn xã sống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và nỗ lực giữ gìn, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Những năm qua, xã đã quan tâm, tạo điều kiện, hỗ trợ, tuyên truyền để đồng bào phục dựng và tiếp tục duy trì bản sắc văn hóa truyền thống, trong đó có Lễ cúng lúa mới của người Xơ Đăng. Qua 30 năm duy trì tổ chức đều đặn, Lễ hội mừng lúa mới của người Xơ Đăng trở thành ngày hội chung của nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã. Thông qua Lễ hội không chỉ góp phần gìn giữ, bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống mà còn là sợi dây kết nối cộng đồng, thắt chặt khối đại đoàn kết dân tộc.

Hoài Thu

(TTXVN)
Dân tộc Xơ Đăng Dân tộc Xơ Đăng

Tên tự gọi: Xơ Teng (Hđang, Xđang, Xđeng), Tơ Ðrá (Xđrá, Hđrá), Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng (Xlang), Tà Trĩ (Tà Trê), Châu.

Tên gọi khác: Xê Đăng, Hđang, Kmrâng, Con lan, Brila.

Nhóm địa phương: Xơ Teng, Tơ Ðrá, Mnâm, Ca Dong, Ha Lăng, Tà Trĩ, Châu.

Dân số: 169.501 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng Xơ Ðăng thuộc ngôn ngữ Môn - Khơ Me (ngữ hệ Nam Á), gần với tiếng Hrê, Ba Na, Gié Triêng. Giữa các nhóm có một số từ vựng khác nhau. Chữ viết dùng hệ chữ cái La-tinh, mới hình thành cách đây mấy chục năm.

Lịch sử: Người Xơ Ðăng thuộc số cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây Nguyên và vùng lân cận thuộc miền núi của Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Hoạt động kinh tế: Một bộ phận trồng lúa nước, điển hình là nhóm Mnâm làm ruộng theo lối sơ khai: làm đất bằng cách lùa đàn trâu dẫm quần và dùng cuốc đẽo từ gỗ (nay đã có cuốc lưỡi sắt)... Còn lại, kinh tế rẫy đóng vai trò chủ đạo, với công cụ và cách thức canh tác tương tự như những tộc người khác trong khu vực. Chặt cây bằng rìu và dao quắm hay xà gạc, đốt bằng lửa; chọc lỗ để tra hạt giống thì dùng gậy đẽo nhọn hay gậy có lưỡi sắt; làm cỏ bằng loại cuốc con có cán lấy từ chạc cây và cái nạo có lưỡi bẻ cong về một bên; thu hoạch thì dùng tay tuốt lúa. Ngoài lúa, người Xơ Ðăng còn trồng kê, ngô, sắn, bầu, bí, thuốc lá, dưa, dứa, chuối, mía... Vùng người Ca Dong có trồng quế. Vật nuôi truyền thống là trâu, dê, lợn, chó, gà. Việc hái lượm, săn bắn, kiếm cá có ý nghĩa kinh tế không nhỏ.


Nghề dệt vải có ở nhiều vùng. Nghề rèn phát triển ở nhóm Tơ Ðrá, họ biết chế sắt từ quặng để rèn. Một số nơi người Xơ Ðăng đã biết đãi vàng sa khoáng. Ðan lát phát triển, cung cấp nhiều vật dụng. Họ ưa thích trao đổi vật trực tiếp, nay đã dùng tiền.

Ăn: Người Xơ Ðăng ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thức kiếm được từ rừng; khi cúng bái mới có thịt gia súc, gia cầm. Phổ biến là món canh nấu rau hoặc măng lẫn thịt hay cá, ốc và các món nướng. Họ uống nước lã (nay nhiều người đã đun chín), rượu cần. Ðặc biệt rượu được chế từ loại kê chân vịt ngon hơn rượu làm từ gạo, sắn.

Một số nơi người Xơ Ðăng có tập quán ăn trầu cau. Nam nữ đều hút thuốc lá; có nơi, đồng bào đưa thuốc lá nghiền thành bột vào miệng thay vì hút trong tẩu.

Mặc: Nam đóng khố, ở trần. Nữ mặc váy, áo. Trời lạnh dùng tấm vải choàng người. Trước kia, nhiều nơi người Xơ Ðăng phải dùng y phục bằng vỏ cây. Nay đàn ông thường mặc quần áo như người Việt, áo nữ cũng là áo cánh, sơ mi, váy bằng vải dệt công nghiệp. Vải cổ truyền Xơ Ðăng có nền màu trắng mộc của sợi hoặc màu đen, hoa văn ít và chủ yếu thường dùng các màu đen, trắng, đỏ.

: Người Xơ Ðăng cư trú ở tỉnh Kon Tum và hai huyện Trà My, Phước Sơn tỉnh Quảng Nam, huyện Tây Sơn, tỉnh Quảng Ngãi; sống tập trung nhất ở vùng quần sơn Ngọc Linh. Họ ở nhà sàn, trước kia nhà dài, thường cả đại gia đình ở chung (nay phổ biến hình thức tách hộ riêng). Nhà ở trong làng được bố trí theo tập quán từng vùng: có nơi quây quần vây quanh nhà rông ở giữa, có nơi dựng lớp lớp ngang triền đất và không có nhà rông. Kỹ thuật làm nhà chủ yếu là sử dụng ngoàm và buộc dây, mỗi hàng cột chạy dọc nhà được liên kết thành một vì cột, mỗi ngôi nhà có một vì cột, mỗi ngôi nhà có hai vì cột.

Phương tiện vận chuyển: Gùi được dùng hàng ngày chuyên chở hầu như mọi thứ trên lưng, mỗi quai khoác vào một vai. Có các loại gùi khác nhau: đan thưa, đan dày, có nắp, không nắp, có hoa văn, không có hoa văn... Nam giới còn có riêng gùi 3 ngăn (gùi "cánh dơi") hoặc gùi gần giống hình con ốc sên. Gùi ở các nhóm Xơ Ðăng có sự khác biệt nhau nhất định về kiểu dáng, kỹ thuật đan.

Quan hệ xã hội: Từng làng có đời sống tự quản, đứng đầu là ông "già làng". Lãnh thổ của làng là sở hữu chung, trên đó mỗi người có quyền sở hữu ruộng đất để làm ăn. Tuy đã hình thành giàu - nghèo nhưng chưa có bóc lột một cách rõ rệt, xưa kia nô lệ mua về và người ở đợ không bị đối xử hà khắc. Quan hệ cộng đồng trong làng được đề cao.

Cưới xin: Phong tục ở các vùng không hoàn toàn giống nhau. Song, phổ biến là cư trú luân chuyển mỗi bên mấy năm, thường khi cha mẹ qua đời mới ở hẳn một chỗ. Ðám cưới có lễ thức cô dâu chú rể đưa đùi gà cho nhau ăn, đưa rượu cho nhau uống, cùng ăn một mâm cơm... để tượng trưng sự kết gắn hai người. Không có tính chất mua bán trong hôn nhân.

Ma chay: Cả làng chia buồn với tang chủ và giúp việc đám ma. Quan tài gỗ đẽo độc mộc. Những người chết bình thường được chôn trong bãi mộ chung của làng. Lệ tục cụ thể không hoàn toàn thống nhất giữa các nhóm. Không có lễ bỏ mả như người Ba Na, Gia Rai... Tục "chia của" cho người chết (đồ mặc, tư trang, công cụ, đồ gia dụng...) phổ biến.

Thờ cúng: Người Xơ Ðăng tin vào sức mạnh siêu nhiên, các "thần" hay "ma" được gọi là Kiak (Kia) hoặc "Ông", "Bà", chỉ một số nơi gọi là "Yàng". Các thần quan trọng như thần sấm sét, thần mặt trời, thần núi, thần lúa, thần nước... Thần nước hiện thân là thuồng luồng, hoặc con "lươn" khổng lồ, hoặc con lợn mũi trắng. Thần lúa có dạng bà già xấu xí, tốt bụng, thường biến thành cóc. Trong đời sống và canh tác rẫy có rất nhiều lễ thức cúng bái đối với các lực lượng siêu nhiên, tập trung vào mục đích cầu mùa, cầu an, tránh sự rủi ro cho cộng đồng và cá nhân.

Lễ tết: Quan trọng nhất là lễ cúng thần nước vào dịp sửa máng nước hàng năm, các lễ cúng vào dịp mở đầu năm làm ăn mới, mở đầu vụ trỉa lúa, khi lúa đến kỳ con gái, khi thu hoạch, các lễ cúng khi ốm đau, dựng nhà rông, làm nhà mới, khi con cái trưởng thành... Nhiều dịp sinh hoạt tôn giáo đồng thời có tính chất hội hè của cộng đồng làng, tiêu biểu là lễ trước ngày trỉa, lễ cúng thần nước, lễ có đâm trâu của làng cũng như gia đình. Tết dân tộc tổ chức trước sau tuỳ làng, nhưng thường trong tháng Giêng (dương lịch), kéo dài 3-4 ngày.

Lịch: Cách tính lịch một năm có 10 tháng, gắn với một chu kỳ làm rẫy, sau đó là thời gian nghỉ sản xuất kéo dài cho đến khi bước vào vụ rẫy mới. Mỗi tháng 30 ngày. Trong ngày được chia ra các thời điểm với tên gọi cụ thể. Phân biệt ngày tốt, ngày xấu, ví dụ: ngày cuối tháng nếu trồng ngô sẽ nhiều hạt, chặt tre nứa dùng sẽ không bị mọt...

Văn nghệ: Người Xơ Ðăng có nhiều loại nhạc cụ (đàn, nhị, sáo dọc, ống vỗ kloongbút, trống, chiêng, cồng, tù và, ống gõ, giàn ống hoạt động nhờ sức nước...). Có loại dùng giải trí thông thường, có loại dùng trong lễ hội. Các loại nhạc cụ cụ thể và điệu tấu nhạc có sự khác nhau ít nhiều giữa các nhóm. Những điệu hát phổ biến là: hát đối đáp của trai gái, hát của người lớn tuổi, hát ru. Trong một số dịp lễ hội, đồng bào trình diễn múa: có điệu múa riêng cho nam, riêng cho nữ, cũng có điệu múa cả nam, nữ cùng tham gia. Truyện cổ Xơ Ðăng phong phú và đặc sắc.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm