Hoa văn trên trang phục dân tộc

Hoa văn trên trang phục dân tộc
Qua đó làm nổi bật nét tinh hoa văn hóa, quan điểm thẩm mỹ của dân tộc mình, biến những trang phục cùng nghệ thuật tạo hình hoa văn trên đó không chỉ là đồ mặc thông thường trong ngày Tết, lễ hội, hay cưới xin mà còn mang tính thẩm mỹ độc đáo, đi sâu vào đời sống tâm linh của cộng đồng.
 
Hoa văn trên trang phục dân tộc ảnh 1
Mô típ ngôi sao tám cánh xuất hiện trên nhiều trang trí của các dân tộc 
Với sự đa dạng các tộc người khác nhau nên nghệ thuật tạo hình hoa văn dân tộc Việt Nam cũng qua đó mà trở nên phong phú, nhiều kỹ thuật và hình thức thể hiện. Đó chính là nét cá tính, cái riêng, cái độc đáo mà bản thân người nghệ nhân dân tộc này tạo ra trong tác phẩm của mình làm cho nó không bị nhòa lẫn trong các hoa văn dân tộc khác. Qua đó làm nổi bật nét tinh hoa văn hóa, quan điểm thẩm mỹ của dân tộc mình, biến những trang phục cùng nghệ thuật tạo hình hoa văn trên đó không chỉ là đồ mặc thông thường trong ngày Tết, lễ hội, hay cưới xin mà còn mang tính thẩm mỹ độc đáo, đi sâu vào đời sống tâm linh của cộng đồng.

Hoa văn trang trí dân tộc là sản phẩm vật chất của lao động, đồng thời cũng là sản phẩm văn hóa, là biểu hiện sinh động của kỹ thuật thủ công gắn liền với khả năng thẩm mỹ. Mỗi dân tộc có cách tạo hình trang trí và sử dụng trang phục theo những đặc điểm văn hóa riêng của mình. Đó là sự thể hiện một trình độ thẩm mỹ cao, một đời sống tâm hồn giàu chất mỹ cảm nguyên sơ mà phong phú, hòa quyện với cảnh sắc thiên nhiên. Nó đã vượt qua giá trị sử dụng thông thường để đạt đến trình độ khá cao của thẩm mỹ dân gian. Có thể thấy cùng với tiếng nói, hoa văn dân tộc là một di sản văn hóa truyền thống độc đáo mang đặc trưng riêng rất dễ nhận biết của mỗi tộc người.
 
Hoa văn trên trang phục dân tộc ảnh 2
Mô típ ngôi sao tám cánh của các dân tộc có những biến thể khác nhau
 
Mô típ hoa văn của các dân tộc nhìn chung đều có phần phức tạp và tỉ mỉ, màu sắc sử dụng phổ biến và chủ yếu là đỏ, vàng, trắng, xanh nổi bật trên nền vải đen để hạ bớt độ chói của các màu nguyên. Màu đen còn là chất vữa gắn các mảng nhỏ lại, bù đắp cho hình họa đã vỡ vụn, nối không màu với mọi màu, nâng màu sắc từ tẻ nhạt lên trang nhã và biến trang phục dân tộc trở thành một đồ án trang trí đầy nghệ thuật. Nghệ thuật tạo hình hoa văn còn thể hiện cả một quá trình lao động vất vả và kiên trì của người phụ nữ các dân tộc.

Về mô típ, hoa văn các dân tộc chung nhau nhiều yếu tố trang trí. Các hoa văn được cách điệu hóa dưới dạng hình học, phần lớn là: ô chéo, ngôi sao tám cánh, móc câu, chữ thập, hồi văn, hình vuông thủng, đường thẳng, hình thoi, đường zích zắc... tuy nhiên mỗi dân tộc đã tiết chế ra những mẫu trang trí khác nhau về tính cách với nhiều biến dạng phong phú mang đậm màu sắc của núi rừng và thiên nhiên. Về mô típ động vật điển hình thì có: rồng, hươu, nhện, bướm, ếch, rùa, công, phượng, chim,... đó là những con vật gắn bó, gần gũi với cuộc sống từng dân tộc, các hoa văn được kết cấu một cách linh hoạt, lồng ghép, chồng xếp, móc nối... trên nền vải nhưng không làm phá vỡ bố cục chung.

Về mặt bố cục, một số kiểu bố cục chung như thành dải và ô chéo cũng xuất hiện trên nhiều trang phục dân tộc nhưng cũng có những khác biệt. Như vậy có thể thấy mỗi một kiểu bố cục, hay một số mô típ hoa văn không phải là đặc thù của một dân tộc mà nó cũng mang đặc thù trong kho vốn chung cổ kính của nhiều cộng đồng khác nhau từng chung sống lâu đời trên đất nước ta. Tuy nhiên mỗi một tộc người đều có những biến thể riêng không thể trộn lẫn.

Trong quy trình tạo hình và trang trí hoa văn trên vải, mỗi một dân tộc lại có những kỹ năng, kỹ xảo khác nhau như triết nếp, khâu đột, khâu luồn sợi, khâu vắt; các kỹ thuật tạo hoa văn như thêu của dân tộc Dao, Phù Lá; in hoa văn bằng sáp ong (kỹ thuật batik) của H’Mông, Dao Tiền; kỹ thuật ikat của Cơ Tu, Khơ Me; ghép vải của dân tộc LôLô, Pu Péo; dệt của Thái, Mường và một số dân tộc Tây Nguyên. 

Hoa văn trên trang phục dân tộc ảnh 3
Hoa văn sử dụng kỹ thuật chắp vải trên trang phục dân tộc Lô Lô 

Hoa văn trên trang phục dân tộc ảnh 4
Hoa văn sặc sỡ
Kỹ thuật thêu

Kỹ thuật thêu phổ biến ở các dân tộc Dao, Mông, Thái, La Chí. Trong đó Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao Coóc Mùn, Dao Ôgang, Dao Quần Chẹt đều có kỹ thuật thêu thoáng trên nền vải đen, vải chàm. Kỹ thuật thêu này để lộ nền đen có tác dụng làm giảm độ rực chói, mạnh mẽ của các mầu nguyên sắc làm cho hòa sắc chung trở nên đồng điệu, trang nhã. Trong đó kỹ thuật thêu của người Dao Tiền khá đặc biệt, không thêu đè lên các sợi vải mà luồn chỉ theo mắt sợi gọi là thêu luồn sợi, thêu ở mặt trái nhưng các hoạ tiết hoa văn lại nổi lên trên mặt phải của vải. Các họa tiết thêu chủ yếu là hình sao tám cánh, hình chữ thập ngoặc đơn và ngoặc kép, hình gà, hình hoa lá...

Người Mông thì có kỹ thuật thêu lát và thêu chéo mũi. Hai cách thêu này làm cho việc tạo nét mềm mại chủ động, phóng khoáng, không bị gò bó như trong kỹ thuật thêu luồn sợi. Trang trí mang được sắc thái rất riêng biệt, có bản sắc thẩm mỹ của dân tộc rất rõ nét.

Dân tộc La Chí thường có hai loại thêu chủ yếu là thêu móc và thêu xuyên. Trong đó, kỹ thuật thêu xuyên đơn giản hơn, nên chủ yếu được dùng để thêu các đường viền, còn thêu móc có độ phức tạp và cầu kỳ gồm các mô-típ hoa văn hình tam giác, hình chấm tròn, hình quả trám... với nhiều gam màu khác nhau là xanh trắng, đỏ, vàng, tím.

Kỹ thuật dệt

Nổi bật cho nghệ thuật dệt vải phải kể đến dân tộc Mường, Thái. Phụ nữ người Mường, Thái hầu như ai cũng biết dệt vải, đó là tiêu chuẩn đánh giá tài năng và sự đảm đang của người phụ nữ trong gia đình và cộng đồng. Do vậy, mặc dù điều kiện sống và các phương tiện rất thô sơ nhưng họ đã dệt được những tấm váy, áo rất đẹp và đặc trưng cho dân tộc mình. Cùng một loại hoa văn nhưng trong quá trình dệt, mỗi người lại cải biên, cách điệu các chi tiết để tạo nên kiểu dáng hoa văn theo ý thích cá nhân. Những người già thường giữ phong cách, quy tắc truyền thống để bảo lưu kỹ thuật dệt và hoa văn mẫu mực đã được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong khuôn khổ. Các thiếu nữ trẻ khi dệt thường tự do phóng khoáng hơn nên mẫu dệt có phần bị biến cải.

Thổ cẩm của người Mường mang đậm màu sắc hoa văn của núi rừng và thiên nhiên... Hoa văn trên thổ cẩm là những hình cách điệu từ hoa dẻ, hoa hồi, hạt gấc, quả trám... Nhưng độc đáo nhất vẫn là chiếc cạp váy. Cạp váy dệt bằng sợi tơ tằm với nhiều loại hoa văn trang trí trong đó có hoa văn động vật (phổ biết nhất là các mô - típ rồng, phượng, hươu, rùa, cá, nhện) hoa văn thực vật (hoa sen, hoa cà) và hoa văn hình học. Bên cạnh đó, những dân tộc trên dãy Trường Sơn như người Cơ Tu và Tà Ôi ngoài việc dệt hoa văn bằng chỉ màu, họ còn có sở trường dệt hoa văn bằng hạt cườm, tạo nên những hình ảnh sống động.

Kỹ thuật batik

Kỹ thuật này được sử dụng phổ biến ở người H’Mông và Dao Tiền. Người ta vẽ hoa văn bằng sáp ong bằng cách nhúng bút vẽ vào sáp ong nấu chảy rồi vẽ lên vải mộc các họa tiết hoa văn. Sáp ong sẽ dính lại trên nền vải, sau đó tấm vải được đem đi nhuộm chàm nhiều lần cho đến khi có được màu như ý muốn. Những chỗ vẽ sáp ong thì nước chàm sẽ không thấm vào. Sau khi giặt và phơi khô, người ta nấu chảy sáp ong đi cho sáp ong bám trên nền vải tan ra tạo những họa tiết trắng trên nền vải chàm sẫm. Ngoài ra họ cũng in sáp ong bằng cách dùng khuôn có chạm khắc các học tiết trang trí sẵn rồi nhúng vào sáp ong được đun nóng và dập lên vải mộc.

Kỹ thuật Ikat

Là kỹ thuật “nhuộm bao sợi”. Để có được những dải hoa văn gợn sóng trên vải thổ cẩm, người thợ dệt phải thực hiện qua nhiều công đoạn bằng cách che chắn, bao các đoạn sợi lại rồi mang đi nhuộm màu để sau đó chúng có tông màu đậm, nhạt khác nhau. Hoa văn này tuy đơn giản, không nổi bật như hoa văn hạt cườm hay hoa văn chỉ màu nhưng có màu sắc tự nhiên, mộc mạc, cổ xưa, những đường nét mờ ảo như mây như sóng. Tuỳ theo ý đồ trang trí của người thợ dệt, hoa văn gợn sóng được bố trí thành từng mảng, từng vệt dàn trải, chạy đều trên toàn bộ tấm vải dệt. Trước đây kỹ thuật này khá thịnh hành ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên nhưng nay đã thất truyền, chỉ còn người Cơ Tu ở làng Công Dồn (Nam Giang) nắm giữ kỹ thuật Ikat.

Hoa văn trên trang phục dân tộc ảnh 5
Hoa văn thêu chữ vạn đơn, chữ vạn kép của dân tộc Dao

Hoa văn trên trang phục dân tộc ảnh 6
Hoa văn bằng sáp ong của dân tộc Mông
Kỹ thuật chắp vải

Chắp vải là kỹ thuật tạo hoa văn bằng nhiều miếng vải nhỏ, màu sắc khác nhau khâu lên trên một tấm vải đơn sắc, đây là một kỹ thuật được sử dụng phổ biến ở dân tộc Lô Lô đen, Lô Lô hoa, Pu Péo và H’Mông. Trong những khuôn thức bố cục chặt chẽ, các màu nguyên sắc được bố trí bên nhau làm rõ, làm tăng độ tương phản vốn có khiến hòa sắc trở nên rực rỡ, tươi sáng. Người Pu Péo thì ghép trên trang phục các dải hoa văn chắp ghép bằng vải mầu xanh, đỏ, trắng, tím, vàng, nổi lên rực rỡ viền quanh 2 tà áo. Các hình tam giác, quả trám, hình chữ nhật là những hình cơ bản được chắp ghép một cách tỉ mỉ, khéo léo trên tấm choàng phủ trước váy, quanh gấu váy và trên khăn đội đầu. Nhiều mẫu trang trí bằng cách chắp vải tạo nên các họa tiết hình mào gà, mặt trời thể hiện những ý niệm chung về tín ngưỡng sùng bái. Người H’Mông có kỹ thuật đáp vải rất tinh xảo gọi là "đáp vải ngược", nghĩa là mảnh vải đáp được cắt lượn thành các hoạ tiết rồi đáp lên y phục để lộ màu nền bên dưới.

Cùng màu sắc và kỹ thuật thể hiện, các mô típ hoa văn trở nên vô cùng tinh tế, bố cục chặt chẽ, hòa sắc rực rỡ và mang tính đặc trưng riêng. Có thể khẳng định, hoa văn cũng là một trong những nguồn sử liệu quý khi nghiên cứu về lịch sử văn hoá tộc người.

Hoa văn trên trang phục dân tộc ảnh 7
Mô típ ngôi sao tám cánh xuất hiện trên nhiều trang trí của các dân tộc nhưng có những biến thể khác nhau

Hoa văn trên trang phục dân tộc ảnh 8
Hoa văn thêu của dân tộc Phù Lá
 
Đối với đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam, văn hoá dân tộc luôn có giá trị là kiến thức nền tảng, vì vậy chúng ta không những cần phải tiếp thu những xu hướng nghệ thuật mới, những công nghệ tiên tiến, hiện đại của nhân loại, mà bên cạnh đó cần phải biết kết hợp nhuần nhuyễn với bản sắc riêng của dân tộc mình để đem đến những tác phẩm độc đáo và ấn tượng, toát lên được “hồn cốt” của những giá trị văn hóa lâu đời tại Việt Nam mà vẫn mang hơi thở thời đại. Do vậy việc giữ gìn, bảo vệ, phát huy những bản sắc văn hóa dân tộc đặc biệt là nghệ thuật tạo hình hoa văn trang phục cần phải được coi trọng, đi sâu nghiên cứu để phục vụ cho chính cuộc sống hôm nay.

Tóm tắt nghệ thuật tạo hình hoa văn dân tộc

Nghệ thuật tạo hình hoa văn dân tộc Việt Nam rất phong phú, nhiều kỹ thuật và hình thức thể hiện. Đó chính là nét cá tính, cái riêng, cái độc đáo mà bản thân người nghệ nhân dân tộc này tạo ra trong tác phẩm của mình làm cho nó không bị nhòa lẫn trong các hoa văn dân tộc khác. Nó đã vượt qua giá trị sử dụng thông thường để đạt đến trình độ khá cao của thẩm mỹ dân gian. Có thể thấy cùng với tiếng nói, hoa văn dân tộc là một di sản văn hóa truyền thống độc đáo mang đặc trưng riêng rất dễ nhận biết của mỗi tộc người. Mô típ hoa văn của các dân tộc nhìn chung đều có phần phức tạp và tỉ mỉ, màu sắc sử dụng phổ biến và chủ yếu là đỏ, vàng, trắng nổi bật trên nền vải đen để hạ bớt độ chói của các màu nguyên. Về mặt bố cục, một số kiểu bố cục chung như thành dải và ô chéo cũng xuất hiện trên nhiều trang phục dân tộc tuy nhiên mỗi một tộc người đều có những biến thể riêng không thể trộn lẫn. Trong quy trình tạo hình và trang trí hoa văn trên vải, mỗi một dân tộc lại có các kỹ thuật tạo hoa văn riêng như thêu của dân tộc Dao, Phù Lá; in hoa văn bằng sáp ong (kỹ thuật batik) của Mông, Dao Tiền; kỹ thuật ikat của Cơ Tu, Khơ Me; ghép vải của dân tộc LôLô, Pu Péo; dệt của Thái, Mường và một số dân tộc Tây Nguyên. Cùng màu sắc và kỹ thuật thể hiện, các mô típ hoa văn trở nên vô cùng tinh tế, bố cục chặt chẽ, hòa sắc rực rỡ và mang tính đặc trưng riêng. Có thể khẳng định, hoa văn cũng là một trong những nguồn sử liệu quý khi nghiên cứu về lịch sử văn hoá tộc người.
Theo vietnamfineart.com.vn

Có thể bạn quan tâm

Giữ lửa nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Mông trên đỉnh Hang Kia – Pà Cò

Giữ lửa nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Mông trên đỉnh Hang Kia – Pà Cò

Nằm trong vùng núi cao của huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình, xã Hang Kia và Pà Cò là nơi sinh sống của cộng đồng dân tộc Mông, một dân tộc có nền văn hóa lâu đời với những giá trị truyền thống đặc sắc. Trong đó, nghề dệt, thêu thổ cẩm là một phần quan trọng trong đời sống của người dân nơi đây.

Phát triển kinh tế từ di sản văn hóa Huế

Phát triển kinh tế từ di sản văn hóa Huế

Là vùng đất giàu giá trị di sản và văn hóa, Thừa Thiên - Huế đang nỗ lực bảo tồn, khai thác hiệu quả hệ thống di sản đồ sộ nhằm mang lại sức sống mới cho di sản đồng thời mang về nguồn thu lớn cho cộng đồng, thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững.

Đầu tư 170 tỷ đồng trùng tu di tích Hiền Lương-Bến Hải và Thành cổ Quảng Trị

Đầu tư 170 tỷ đồng trùng tu di tích Hiền Lương-Bến Hải và Thành cổ Quảng Trị

UBND tỉnh Quảng Trị đã quyết định phê duyệt Dự án “Công viên Thống nhất tại khu di tích quốc gia đặc biệt đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải” và Dự án “Khu di tích quốc gia đặc biệt Thành cổ Quảng Trị và những địa điểm lưu niệm sự kiện 81 ngày đêm chiến đấu, bảo vệ Thành cổ Quảng Trị". Hai dự án có tổng kinh phí đầu tư 170 tỷ đồng, từ nguồn ngân sách Trung ương.

48 tác phẩm đoạt giải Cuộc thi ảnh báo chí, ảnh nghệ thuật toàn quốc "80 năm Quân đội Anh hùng"

48 tác phẩm đoạt giải Cuộc thi ảnh báo chí, ảnh nghệ thuật toàn quốc "80 năm Quân đội Anh hùng"

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 80 năm Ngày truyền thống Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân, ngày 17/12, tại Hà Nội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức trao giải Cuộc thi ảnh báo chí, ảnh nghệ thuật toàn quốc về Quân đội nhân dân Việt Nam và Quốc phòng toàn dân năm 2024 với chủ đề "80 năm Quân đội Anh hùng".

Hàng tuần, nhà hát nghệ thuật hát bội thành phố Hồ Chí Minh vẫn sáng đèn phục vụ người dân. Ảnh: An Hiếu

Hát bội - từ cung đình đến chốn dân gian

Hát bội là loại hình âm nhạc, diễn xướng xuất hiện trong cung đình hàng trăm năm trước, theo thời gian dần len lỏi vào cuộc sống người dân và trở thành văn hóa truyền thống, gắn với những lễ cúng đình, miếu của người dân Nam Bộ nói chung và tại Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.

Xuất bản Cuốn sách song ngữ về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh​

Xuất bản Cuốn sách song ngữ về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh​

Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật vừa phát hành cuốn sách song ngữ Việt – Anh: “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tiểu sử và sự nghiệp” do Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch biên soạn đã khái quát về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Lan tỏa nét đẹp văn hóa trong Ngày hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2024

Lan tỏa nét đẹp văn hóa trong Ngày hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2024

Ngày hội Văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2024 đã khai mạc tại thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị với sự tham gia của 1.500 nghệ nhân, diễn viên, vận động viên đến từ 16 tỉnh, thành trong cả nước. Sự kiện do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND tỉnh Quảng Trị tổ chức. Với chủ đề “Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam - Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, hội nhập và phát triển vì một thế giới hòa bình”, Ngày hội đã diễn ra với nhiều hoạt động sôi nổi.

Đua ghe ngo là phần hấp dẫn nhất trong Lễ hội Ook Om Bok , một trong 3 lễ hội lớn của người Khmer, bên cạnh Tết cổ truyền Chol Chnam Thmay và lễ cúng ông bà Sene Dolta. Ảnh: An HIếu

Khám phá nét độc đáo qua Lễ hội đua ghe Ngo truyền thống của đồng bào Khmer Sóc Trăng

Đối với đồng bào Khmer nói chung và đồng bào Khmer Sóc Trăng nói riêng, chiếc ghe ngo có vị trí vô cùng quan trọng, được xem là vị thần bảo vệ sự bình yên, là hiện thân của tình đoàn kết và sức mạnh thôn xóm. Vì thế, khi có ghe ngo thì bà con Khmer từ trẻ đến già đều thể hiện sự trân trọng và yêu thích khi được góp sức cho đội ghe và thôn xóm của mình, nhiều gia đình sẵn sàng tự bỏ tiền để lo cho cả đội ghe ngo từ lúc tập luyện cho đến ngày khai hội.

Tưng bừng Ngày hội Văn hóa các dân tộc thiểu số và miền núi lần đầu ở Bình Thuận

Tưng bừng Ngày hội Văn hóa các dân tộc thiểu số và miền núi lần đầu ở Bình Thuận

Tối 11/12, tại thành phố Phan Thiết, Ngày hội Văn hóa các dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Bình Thuận lần thứ nhất năm 2024 với chủ đề “Bảo tồn, phát huy và lan tỏa bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số và miền núi gắn với phát triển du lịch” chính thức khai mạc.

Với nghệ thuật kiến trúc đặc sắc và ấn tượng, với gam màu trắng làm chủ đạo, với các hoạt tiết trang trí ánh vàng ánh bắt mắt, Chùa Peam Buôl Thmây tọa lạc ở Khóm 5, Phường 4, Thành phố Sóc Trăng, đang là một trong những điểm "check in" lý tưởng khi du khách đặt chân đến Sóc Trăng. Ảnh: An Hiếu

Giá trị truyền thống từ các ngôi chùa Khmer tại Sóc Trăng

Có thể nói, với đồng bào Khmer, ngôi chùa là nơi chứa đựng những giá trị tâm linh, tín ngưỡng thiêng liêng, sâu sắc, nơi sinh hoạt tôn giáo, trung tâm sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân cư trong phum, sóc. Là nơi đồng bào Khmer tập trung đông nhất, chiếm khoảng 30 % dân số, Sóc Trăng hiện có 92 ngôi chùa Khmer, trong đó có 2 ngôi chùa (chùa Kh’leang, chùa Dơi) được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.

Phát huy giá trị Di sản văn hóa Chăm trong phát triển du lịch

Phát huy giá trị Di sản văn hóa Chăm trong phát triển du lịch

Tỉnh Ninh Thuận đang tập trung khai thác tối đa giá trị của các di sản văn hóa, đặc biệt là Di sản văn hóa Chăm để góp phần thúc đẩy phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đây không chỉ là định hướng mà còn là cơ hội để bảo tồn, quảng bá những giá trị văn hóa độc đáo của địa phương nhằm thu hút đông đảo du khách đến khám phá, trải nghiệm.

Điểm nhấn văn hóa về đêm ở phố biển Nha Trang

Điểm nhấn văn hóa về đêm ở phố biển Nha Trang

Thời gian gần đây, du khách đến Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa) được trải nghiệm nét văn hóa độc đáo và đầy ý nghĩa qua hai chương trình biểu diễn đặc biệt mang tên: “Linh thiêng xứ Trầm” và “Trăng soi dáng tháp”.