Thương mại điện tử ngày càng được mở rộng và hiện đã trở thành phương thức kinh doanh phổ biến được doanh nghiệp, người dân biết đến. Đặc biệt dưới tác động của COVID-19 đã đưa thương mại điện tử tăng trưởng mạnh mẽ, trở thành kênh mua sắm quen thuộc và trở thành một xu thế tất yếu hiện nay.
Nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu đưa các sản phẩm hàng Việt lên các sàn thương mại điện tử để phát triển thị trường tiêu thụ, đặc biệt là các sản phẩm hàng hoá vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp hay các hộ sản xuất, kinh doanh thuộc khu vực này, thương mại điện tử vẫn là một kênh phân phối khá mới mẻ.
Vấn đề này đã được các chuyên gia đưa ra thảo luận tại toạ đàm Thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi qua thương mại điện tử do Tạp chí Công Thương tổ chức ngày 23/11, tại Hà Nội.
Chia sẻ tại toạ đàm, ông Phạm Công Toản, Phó Giám đốc Sở Công Thương Bắc Giang cho biết, thời gian qua, tỉnh Bắc Giang đã hỗ trợ nhiều chính sách để xây dựng phát triển thương hiệu và tạo ra những sản phẩm mang nét đặc trưng hàng Việt với lợi thế cạnh tranh riêng.
Hiện tại, Bắc Giang đã có 54 sản phẩm chủ lực đặc trưng và tiềm năng, 180 sản phẩm OCOP (Mỗi xã một sản phẩm). Hầu hết các sản phẩm của Bắc Giang đều được áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất như là Global GAP, VietGAP và các chương trình quản lý chất lượng tiên tiến. Do đó cũng đã tạo được thương hiệu riêng và chiếm được một số tiêu chí về chất lượng trong niềm tin của khách hàng.
Cũng chính vì điều đó đặt ra bài toán tiêu thụ sản phẩm cho bà con nông dân cho các đồng bào dân tộc thiểu số, các địa phương đặc biệt là những sản phẩm mang tính chất mùa vụ cao và sản lượng lớn, điều đó cũng tạo nên áp lực cho các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương.
Theo ông Phạm Công Toản, từ đầu năm đến nay, tỉnh Bắc Giang đã hỗ trợ được 40 hợp tác xã và doanh nghiệp mở gian hàng tiêu thụ hàng Việt trên sàn thương mại điện tử.
Cùng đó, tổ chức hướng dẫn bà con ngay tại vườn cách làm hình ảnh, tiếp nhận đơn hàng chốt đơn hàng, cách đóng gói, quy trình vận chuyển hàng đến tay với người tiêu dùng và nhận được sự hỗ trợ rất nhiều từ các sàn thương mại điện tử trong quá trình thực hiện.
Trên cơ sở đó, Sở Công Thương Bắc Giang cũng đã nghiên cứu và xây dựng các chính sách giai đoạn 2021-2025 trong việc ứng dụng thương mại điện tử.
Với các hợp tác xã đầu tiên chưa từng tham gia nhưng bây giờ bà con cũng đã đầu tư tiền mở gian hàng, xây dựng thương hiệu, đóng gói sản phẩm, tem nhãn sản phẩm, truy xuất nguồn gốc. Đây chính là động lực thúc đẩy xây dựng thương hiệu và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Theo ông Nguyễn Bình Minh - Ủy viên BCH Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM), thương mại điện tử đã trở thành cầu nối giúp bà con có thể phát triển nhanh trong giai đoạn đại dịch COVID-19.
Mặc dù chuyển đổi số ở Việt Nam diễn ra với tốc độ khá cao, tuy nhiên với khoảng cách số hay giãn cách số giữa các thành phố lớn và các địa phương còn rất lớn. Đơn cử như Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh thường có khoảng cách khá xa so với các điểm số trung bình của cả nước, thường gấp 4 lần.
Điều đó dẫn đến là hầu hết các hoạt động thương mại điện tử chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn và đây là một trong những trở ngại, thách thức nếu muốn đẩy mạnh tốc độ chuyển đổi số, cũng như phát triển thương mại điện tử ở các vùng sâu vùng xa.
Vì vậy, cần sự vào cuộc của rất nhiều bên để hỗ trợ hoạt động thương mại điện tử; trong đó, có việc các đơn vị, các sàn thương mại điện tử đã về hỗ trợ bà con, huấn luyện cách mở gian hàng, cách livestream sản phẩm, cách viết nội dung về sản phẩm.
Đó mới chỉ là những bước ban đầu để đưa được sản phẩm lên trên sàn thương mại điện tử. Đây là điểm tiếp xúc mà có đông người tham gia nhưng về lâu dài hoạt động đào tạo và phát triển thương mại điện tử cần phải có lộ trình phù hợp để trợ giúp bà con trong một thời gian dài liên tục học tập, nâng cao trình độ.
Ngoài ra, mặc dù công nghệ truy xuất nguồn gốc hiện đại nhất thế giới đã xuất hiện ở tại Việt Nam, tuy nhiên ở mức độ phổ cập cho bà con nông dân lại chưa có và chỉ nằm ở một số sản phẩm có giá trị cao.
Do đó, thời gian tới việc phổ cập các hoạt động về truy xuất nguồn gốc cho bà con nông dân sẽ được mở rộng ra để tất cả sản phẩm từ trung bình đến những sản phẩm giá rẻ cũng đều có khả năng ứng dụng các công nghệ truy xuất nguồn gốc hiện đại.
Bởi, những công nghệ truy xuất nguồn gốc hiện đại mới được các thị trường trên thế giới dễ dàng chấp nhận. Ngoài ra, công nghệ đơn giản như dán tem hay những công nghệ bình thường sẽ rất khó để thuyết phục và nhận sự tin cậy cao từ khách hàng.
Ông Phạm Văn Dũng, Giám đốc Hợp tác xã Hồng Xuân cho biết, hợp tác xã đang cung cấp mặt hàng và các hệ thống siêu thị, Tập đoàn Central Retail, Vincom, Vinmart và các hệ thống siêu thị khác.
Đặc biệt, các mặt hàng của hợp tác xã đều có truy xuất nguồn gốc và khi cung cấp lên hệ thống siêu thị hay sàn thương mại điện tử ngoài chất lượng sản phẩm còn có mẫu mã đẹp.
Trong thời gian dịch COVID-19, Hợp tác xã Hồng Xuân cũng đã cung cấp trên hệ thống sàn điện tử online và mới đây đã đưa hàng lên hệ thống Cuccu.vn.
Thế nhưng, để đưa được lên các sàn, theo ông Phạm Văn Dũng phải có giấy chứng nhận an toàn thực phẩm, các sản phẩm đều phải được các cấp giấy chứng nhận VietGAP và GlobalGAP.
Ngoài ra, hợp tác xã phải nêu các nhật ký chăm sóc, tiến tới sẽ chuyển sang dần sang chăm sóc nhật ký điện tử, khách hàng khi truy cập vào mã có thể khách hàng sẽ biết được quy trình chăm sóc các sản phẩm.
Với sứ mệnh mang tinh hoa hàng Việt ra thế giới, nhất là phát triển các sản phẩm gia vị hữu cơ, ông Trần Văn Hiếu, Giám đốc Công ty TNHH Phát triển nông nghiệp và Tư vấn môi trường DACE cho hay, là công ty chuyên về các sản phẩm về gia vị và có hơn 10 năm kinh nghiệm trong việc là sản xuất chế biến và xuất khẩu các sản phẩm gia vị của Việt Nam, đến nay DACE đã đạt những tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn về hữu cơ để xuất khẩu vào hệ thống siêu thị và xuất khẩu.
Trên hành trình đó, công ty cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng thương hiệu, tìm kiếm khách hàng, thị trường. Do đó, để thúc đẩy hàng hoá qua kênh thương mại điện tử, công ty đã phân ra 2 kênh khách hàng.
Chẳng hạn như công ty lựa chọn bán qua sàn thương mại điện tử là Alibaba dù là trong lượng xuất khẩu của DACE, Alibaba cũng chỉ chiếm khoảng 5-10%, ngoài ra là tại các hội chợ thương mại truyền thống trên thế giới.
Ngoài ra, công ty cũng bán hàng Việt Nam và Singapore, các hệ thống Lazada, Shopee. Hơn nữa, sau COVID-19, xu hướng mua sắm của người tiêu dùng đã thay đổi và quen với việc mua bán thương mại điện tử nhiều hơn nên tốc độ tăng trưởng về thương mại điện tử rất nhanh.
Đáng lưu ý, những bài học như ở Trung Quốc bán hàng livestream từ đồng ruộng được số lượng rất lớn cũng được công ty hết sức lưu tâm. Đối với DACE thường xuyên xây dựng bộ tài liệu để đưa lên các trang thương mại điện tử như hình ảnh, video hay những thông tin cập nhật một cách thường xuyên để đưa đến những thông tin hữu ích cho người người sử dụng.
Để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm qua các kênh thương mại điện tử, ông Nguyễn Bình Minh cho rằng, người dùng đã quá quen với các ứng dụng di động các website mobile, hoạt động ở trên Internet, trong khi nhiều doanh nghiệp còn chưa kịp triển khai website mobile, chưa kịp triển khai ứng dụng di động. Điều này cho thấy doanh nghiệp đang tỏ ra chậm hơn so với người tiêu dùng trong quá trình chuyển đổi số.
Chính vì vậy, nếu doanh nghiệp biết tận dụng việc dân số Việt Nam là dân số trẻ và trình độ công nghệ tương đối cao và quá trình chuyển đổi của người tiêu dùng cũng rất nhanh, học công nghệ mới rất dễ thì sẽ tận dụng được tiềm năng rất lớn từ thị trường.
Ngoài ra, doanh nghiệp cần chú ý phát triển đầu tư các hoạt động về marketing, quảng bá và làm thương hiệu ở trên Internet. Việc đầu tư làm thương hiệu hay quảng bá hình ảnh, nâng cao các kỹ năng về marketing trên nền tảng số là những điều doanh nghiệp cần đầu tư và nó sẽ mang tới cho doanh nghiệp một cái bước nhảy mới trong thời kỳ chuyển đổi số.
Uyên Hương