Mối bận tâm của mọi gia đình
Đái tháo đường là một trong những bệnh không lây nhiễm phổ biến trên toàn cầu. Theo IDF, năm 2017 thế giới có 425 triệu người bị bệnh tiểu đường, tuổi từ 20 đến 79. Dự báo năm 2045 con số này là 629 triệu người, tăng 48%.
Tuy nhiên, gần một nửa số người đang sống với bệnh đái tháo đường (độ tuổi 20-79) không được chẩn đoán (46,5%), tỷ lệ này ở khu vực Tây Thái Bình Dương là 52,1%. Nhiều người đang chung sống với bệnh đái tháo đường tuýp 2 trong một thời gian dài mà không nhận biết được tình trạng bệnh của họ. Đến khi được chẩn đoán, thường đã kèm theo các biến chứng của bệnh.
Tại Việt Nam, có 3,53 triệu người đang chung sống với bệnh đái tháo đường, mỗi ngày ít nhất 80 người tử vong vì các biến chứng liên quan. Trong đó, 63% người bệnh nhưng chưa được chẩn đoán và 70% bệnh nhân đã được chẩn đoán bệnh tuýp 2 song chưa đạt mục tiêu điều trị. Đái tháo đường là bệnh gây tử vong đứng thứ ba trong số các bệnh không lây nhiễm tại Việt Nam, sau tim mạch và ung thư.
Độ tuổi của người bệnh ngày càng trẻ, đặc biệt là tiểu đường tuýp 2. Trước đây, bệnh xảy ra ở người 40 tuổi trở lên, hiện nay nhiều người mắc bệnh khi mới 25-30 tuổi, thậm chí tuổi vị thành niên. Gần 70% người mắc không biết mình bị bệnh. 85% người chỉ phát hiện bệnh khi đã có biến chứng nguy hiểm như tim mạch, suy thận, thần kinh, biến chứng bàn chân...
Năm 2017, Việt Nam đã tiêu tốn khoảng 765,6 triệu USD cho điều trị bệnh đái tháo đường.
Người trẻ với nguy cơ đái tháo đường
Trước tình trạng độ tuổi của người bệnh ngày càng trẻ hóa, Tiến sĩ Nguyễn Quang Bảy, Trưởng khoa Nội tiết – Đái tháo đường, Bệnh viện Bạch Mai cho rằng, trẻ hóa đái tháo đường là vấn đề đáng lo ngại do thời gian gần đây tỷ lệ trẻ béo phì gia tăng.
“Có cháu 14-15 tuổi đã mắc đái tháo đường và thường là những đứa trẻ béo phì, gáy và nách thường có gai đen (có đám da sần và chuyển màu). Việc điều trị nhóm bệnh nhân này khó khăn hơn vì các thuốc uống hạ đường huyết thường ít được nghiên cứu ở trẻ em và trẻ thường tuân thủ điều trị kém, duy trì chế độ ăn uống, sinh hoạt không thể giống như người lớn. Có bệnh nhân 16 tuổi đã bị đái tháo đường, cao 1m83, nặng 88 kg, vào viện vì đường máu quá cao. Sau khi điều trị, cân nặng vẫn tăng do chế độ ăn không đảm bảo, đi học thường xuyên ăn thêm”, Tiến sĩ Nguyễn Quang Bảy thông tin.
Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy đái tháo đường ở người trẻ thì biến chứng sẽ tiến triển nặng hơn, thời gian dẫn đến biến chứng sớm hơn và tỷ lệ có biến chứng nhiều hơn so với đái tháo đường ở người lớn tuổi. Do đó, để phòng tránh đái tháo đường cho con trẻ, bố mẹ cần kiểm soát chế độ ăn và cân nặng cho trẻ. Liên đoàn đái tháo đường thế giới cho biết, 50% bệnh nhân đái tháo đường và 90% bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 có thể phòng ngừa được bằng thay đổi lối sống, tăng cường vận động, kiểm soát cân nặng và chế độ ăn.
Bên cạnh trẻ hóa độ tuổi, nguy cơ của đái tháo đường thai kỳ đối với mẹ và con là rất lớn nếu không kiểm soát tốt đường huyết. Với những tuần đầu có thể gây sảy thai, thai chết lưu, có nhiều trường hợp hỏng thai liên tiếp nhiều lần sau đó mới được phát hiện bị đái tháo đường. Một số trường hợp rất đáng tiếc, thai đã 37 – 38 tuần bị chết lưu và mẹ bị hôn mê do chỉ số đường huyết quá cao mà không được tầm soát dù người mẹ có nhiều yếu tố nguy cơ cao. Đái tháo đường thai kỳ cũng có thể gây ra một số biến chứng như dị tật cho thai nhi, đặc biệt là dị tật về tim mạch, thần kinh, thai to… Đối với mẹ sẽ là các nguy cơ đa ối, đái tháo đường về sau.
Tiền đái tháo đường và cách phòng tránh
Tiến sĩ Nguyễn Quang Bảy cho biết: Hiện nay, bên cạnh đái tháo đường, tiền đái tháo đường cũng là vấn đề được nhiều người quan tâm. Theo điều tra dịch tễ của Việt Nam, tỷ lệ mắc tiền đái tháo đường thường cao hơn gấp đôi so với đái tháo đường (5,4% so với 13,7% theo điều tra năm 2012). Đáng lo ngại, tiền đái tháo đường nếu để diễn biến tự nhiên thì sau 10 năm, 50% sẽ chuyển thành đái tháo đường, 25% vẫn là tiền đái tháo đường và 25% có thể trở về bình thường.
Tiền đái tháo đường là dạng rối loạn đường huyết nhưng chưa đến mức là đái tháo đường. Có 2 dạng tiền đái tháo đường là tăng đường huyết lúc đói (đường huyết lúc đói dưới 7,0 nhưng trên 5,6 mmol/L) và rối loạn dung nạp glucose (đường huyết đo 2 giờ sau khi uống 75g glucose từ 7,8 đến 11,0 mmol/L)
Nhiều nghiên cứu chứng minh người tiền đái tháo đường có tăng cao nguy cơ bị các biến chứng tim mạch và thần kinh, vì vậy hiện nay trên thế giới có hơn 50 quốc gia đã coi tiền đái tháo đường là một bệnh và có chỉ định điều trị nhằm 2 mục tiêu chính là ngăn ngừa tiến triển thành đái tháo đường và ngăn ngừa các biến chứng tim mạch - thủ phạm chính gây ra tử vong ở các bệnh nhân đái tháo đường. Cho đến nay, có 3 phương pháp chính để can thiệp vào nhóm này là thay đối lối sống, sử dụng thuốc và phẫu thuật.
Theo các chuyên gia y tế, thay đổi lối sống là phương pháp can thiệp cơ bản, gồm điều chỉnh chế độ ăn và tăng cường tập luyện thể lực để làm giảm cân. Phương pháp này có hiệu quả rất tốt trong thời gian đầu nhưng lại không bền vững. Do đó hiện nay người ta đang hướng đến phương pháp sử dụng thuốc đối với nhóm tiền đái tháo đường nguy cơ cao với các biến chứng về tim mạch, thuốc được sử dụng phổ biến nhất là Metformin. Phương pháp phẫu thuật thắt dạ dày hoặc nối thông dạ dày – ruột được áp dụng đối với nhóm béo phì, có chỉ số khối cơ thể (BMI) trên 34.
Đái tháo đường là một trong những bệnh không lây nhiễm phổ biến trên toàn cầu. Theo IDF, năm 2017 thế giới có 425 triệu người bị bệnh tiểu đường, tuổi từ 20 đến 79. Dự báo năm 2045 con số này là 629 triệu người, tăng 48%.
Tuy nhiên, gần một nửa số người đang sống với bệnh đái tháo đường (độ tuổi 20-79) không được chẩn đoán (46,5%), tỷ lệ này ở khu vực Tây Thái Bình Dương là 52,1%. Nhiều người đang chung sống với bệnh đái tháo đường tuýp 2 trong một thời gian dài mà không nhận biết được tình trạng bệnh của họ. Đến khi được chẩn đoán, thường đã kèm theo các biến chứng của bệnh.
Tại Việt Nam, có 3,53 triệu người đang chung sống với bệnh đái tháo đường, mỗi ngày ít nhất 80 người tử vong vì các biến chứng liên quan. Trong đó, 63% người bệnh nhưng chưa được chẩn đoán và 70% bệnh nhân đã được chẩn đoán bệnh tuýp 2 song chưa đạt mục tiêu điều trị. Đái tháo đường là bệnh gây tử vong đứng thứ ba trong số các bệnh không lây nhiễm tại Việt Nam, sau tim mạch và ung thư.
Độ tuổi của người bệnh ngày càng trẻ, đặc biệt là tiểu đường tuýp 2. Trước đây, bệnh xảy ra ở người 40 tuổi trở lên, hiện nay nhiều người mắc bệnh khi mới 25-30 tuổi, thậm chí tuổi vị thành niên. Gần 70% người mắc không biết mình bị bệnh. 85% người chỉ phát hiện bệnh khi đã có biến chứng nguy hiểm như tim mạch, suy thận, thần kinh, biến chứng bàn chân...
Năm 2017, Việt Nam đã tiêu tốn khoảng 765,6 triệu USD cho điều trị bệnh đái tháo đường.
Người trẻ với nguy cơ đái tháo đường
Trước tình trạng độ tuổi của người bệnh ngày càng trẻ hóa, Tiến sĩ Nguyễn Quang Bảy, Trưởng khoa Nội tiết – Đái tháo đường, Bệnh viện Bạch Mai cho rằng, trẻ hóa đái tháo đường là vấn đề đáng lo ngại do thời gian gần đây tỷ lệ trẻ béo phì gia tăng.
“Có cháu 14-15 tuổi đã mắc đái tháo đường và thường là những đứa trẻ béo phì, gáy và nách thường có gai đen (có đám da sần và chuyển màu). Việc điều trị nhóm bệnh nhân này khó khăn hơn vì các thuốc uống hạ đường huyết thường ít được nghiên cứu ở trẻ em và trẻ thường tuân thủ điều trị kém, duy trì chế độ ăn uống, sinh hoạt không thể giống như người lớn. Có bệnh nhân 16 tuổi đã bị đái tháo đường, cao 1m83, nặng 88 kg, vào viện vì đường máu quá cao. Sau khi điều trị, cân nặng vẫn tăng do chế độ ăn không đảm bảo, đi học thường xuyên ăn thêm”, Tiến sĩ Nguyễn Quang Bảy thông tin.
Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy đái tháo đường ở người trẻ thì biến chứng sẽ tiến triển nặng hơn, thời gian dẫn đến biến chứng sớm hơn và tỷ lệ có biến chứng nhiều hơn so với đái tháo đường ở người lớn tuổi. Do đó, để phòng tránh đái tháo đường cho con trẻ, bố mẹ cần kiểm soát chế độ ăn và cân nặng cho trẻ. Liên đoàn đái tháo đường thế giới cho biết, 50% bệnh nhân đái tháo đường và 90% bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 có thể phòng ngừa được bằng thay đổi lối sống, tăng cường vận động, kiểm soát cân nặng và chế độ ăn.
Bên cạnh trẻ hóa độ tuổi, nguy cơ của đái tháo đường thai kỳ đối với mẹ và con là rất lớn nếu không kiểm soát tốt đường huyết. Với những tuần đầu có thể gây sảy thai, thai chết lưu, có nhiều trường hợp hỏng thai liên tiếp nhiều lần sau đó mới được phát hiện bị đái tháo đường. Một số trường hợp rất đáng tiếc, thai đã 37 – 38 tuần bị chết lưu và mẹ bị hôn mê do chỉ số đường huyết quá cao mà không được tầm soát dù người mẹ có nhiều yếu tố nguy cơ cao. Đái tháo đường thai kỳ cũng có thể gây ra một số biến chứng như dị tật cho thai nhi, đặc biệt là dị tật về tim mạch, thần kinh, thai to… Đối với mẹ sẽ là các nguy cơ đa ối, đái tháo đường về sau.
Tiền đái tháo đường và cách phòng tránh
Tiến sĩ Nguyễn Quang Bảy cho biết: Hiện nay, bên cạnh đái tháo đường, tiền đái tháo đường cũng là vấn đề được nhiều người quan tâm. Theo điều tra dịch tễ của Việt Nam, tỷ lệ mắc tiền đái tháo đường thường cao hơn gấp đôi so với đái tháo đường (5,4% so với 13,7% theo điều tra năm 2012). Đáng lo ngại, tiền đái tháo đường nếu để diễn biến tự nhiên thì sau 10 năm, 50% sẽ chuyển thành đái tháo đường, 25% vẫn là tiền đái tháo đường và 25% có thể trở về bình thường.
Tiền đái tháo đường là dạng rối loạn đường huyết nhưng chưa đến mức là đái tháo đường. Có 2 dạng tiền đái tháo đường là tăng đường huyết lúc đói (đường huyết lúc đói dưới 7,0 nhưng trên 5,6 mmol/L) và rối loạn dung nạp glucose (đường huyết đo 2 giờ sau khi uống 75g glucose từ 7,8 đến 11,0 mmol/L)
Nhiều nghiên cứu chứng minh người tiền đái tháo đường có tăng cao nguy cơ bị các biến chứng tim mạch và thần kinh, vì vậy hiện nay trên thế giới có hơn 50 quốc gia đã coi tiền đái tháo đường là một bệnh và có chỉ định điều trị nhằm 2 mục tiêu chính là ngăn ngừa tiến triển thành đái tháo đường và ngăn ngừa các biến chứng tim mạch - thủ phạm chính gây ra tử vong ở các bệnh nhân đái tháo đường. Cho đến nay, có 3 phương pháp chính để can thiệp vào nhóm này là thay đối lối sống, sử dụng thuốc và phẫu thuật.
Theo các chuyên gia y tế, thay đổi lối sống là phương pháp can thiệp cơ bản, gồm điều chỉnh chế độ ăn và tăng cường tập luyện thể lực để làm giảm cân. Phương pháp này có hiệu quả rất tốt trong thời gian đầu nhưng lại không bền vững. Do đó hiện nay người ta đang hướng đến phương pháp sử dụng thuốc đối với nhóm tiền đái tháo đường nguy cơ cao với các biến chứng về tim mạch, thuốc được sử dụng phổ biến nhất là Metformin. Phương pháp phẫu thuật thắt dạ dày hoặc nối thông dạ dày – ruột được áp dụng đối với nhóm béo phì, có chỉ số khối cơ thể (BMI) trên 34.
Bích Thủy