Trăn trở khi thấy nghề dệt thổ cẩm truyền thống có nguy cơ bị mai một, bà H’Yam Bkrông (sinh năm 1965), buôn Tơng Jú, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, đã khởi xướng thành lập Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông. Đến nay, sau 17 năm thành lập và phát triển, hợp tác xã có đầu ra ổn định, giữ gìn được nghề truyền thống của dân tộc Êđê, giúp nâng cao đời sống hội viên phụ nữ dân tộc thiểu số tại chỗ.
Bà H’Yam (phải), Giám đốc Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông quan sát, hướng dẫn xã viên dệt thổ cẩm. Ảnh: Hoài Thu – TTXVN
Nằm cách trung tâm thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 12km, Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông hiện có 45 thành viên, đều là người dân tộc Êđê. Xã viên hợp tác xã đều biết dệt may thành thạo các sản phẩm như y phục nam nữ, túi xách, cà vạt, khăn trải bàn, gối tựa lưng, áo dài, quần áo trẻ em… Doanh thu của Hợp tác xã ổn định khoảng 1,2 tỷ đồng/năm, trong đó thu nhập của xã viên trung bình từ 3,2 – 3,5 triệu đồng/người/tháng. Mức thu nhập này không cao so với các ngành nghề khác song đã góp phần giúp chị em xã viên ổn định kinh tế gia đình, giữ gìn được nghề truyền thống. Đây được xem là thành quả đối với những nỗ lực không mệt mỏi của bà H’Yam và các xã viên.
Bà H’Yam kể lại, năm 2003 khi là Ủy viên Ban Thường vụ Hội liên hiệp phụ nữ xã, bà thấy nghề dệt thổ cẩm truyền thống có nét đẹp và bản sắc văn hóa của dân tộc Êđê đang dần bị lãng quên. Dệt thổ cẩm lúc bấy giờ chỉ là phương pháp dệt thủ công, nhỏ lẻ, sản phẩm chủ yếu dùng trong gia đình, được phụ nữ trong buôn tranh thủ dệt lúc rảnh rỗi. Với khao khát giữ lửa cho nghề dệt truyền thống và giúp chị em có thêm thu nhập, bà H’Yam đã mạnh dạn đề xuất Hội liên hiệp phụ nữ, Ủy ban nhân dân xã thành lập tổ dệt. Bản thân bà H’Yam cũng đi vận động chị em trong buôn và các buôn lân cận tham gia. May mắn là chị em hưởng ứng nhiệt tình và thống nhất chọn mô hình hợp tác xã để khởi xướng "giữ lửa" nghề dệt.
Ban đầu khi mới thành lập, do khó khăn, Hợp tác xã chỉ có 3 xã viên góp vốn theo quy định, các xã viên khác chỉ có thể góp 50 – 100 ngàn đồng. Lúc bấy giờ, tay nghề xã viên chưa có, sản phẩm chưa đạt yêu cầu về thẩm mỹ nên khó tìm đầu ra cho sản phẩm. Được Hội liên hiệp phụ nữ xã cho vay 1,2 triệu đồng, hợp tác xã đã mua khung dệt và mời nghệ nhân trong buôn dạy xã viên dệt, may. Ngoài ra, bà H’Yam cùng các thành viên đã tích cực học hỏi, nghiên cứu, sáng tạo những sản phẩm đa dạng về mẫu mã, hoa văn nên khâu tiêu thụ ngày càng tốt hơn. Những tháng ngày khó khăn ấy, với vóc dáng nhỏ nhắn và tấm lòng yêu ngành nghề truyền thống, bà H’Yam đã kiên trì tìm kiếm, thuyết phục khách hàng. Đến nay, hợp tác xã đã có đầu ra ổn định tại các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Quảng Ninh. Ngoài ra, sản phẩm của hợp tác xã được trưng bày tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam và được mời tham gia nhiều hội thi trang phục các dân tộc.
Sau 5 năm tham gia Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông, chị H’Phi Líp Byă (sinh năm 1992, buôn Tơng Jú, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột) cho biết, trước đây chị không biết may và dệt thổ cẩm. Từ khi tham gia hợp tác xã, chị được học dệt, học may, nhờ đó biết dệt thổ cẩm bằng tay, bằng máy; biết cắt may những bộ trang phục truyền thống, giỏ xách các loại. Chị H’Phi Líp chia sẻ, nhờ bà H’Yam giúp đỡ nên chị và các chị em trong hợp tác xã có được nghề dệt may, tạo ra những sản phẩm đặc trưng để giới thiệu cho du khách xa gần, có thu nhập ổn định.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, giảm giá thành sản phẩm và cạnh tranh được với thổ cẩm của các dân tộc khác, sau khi Hội liên hiệp phụ nữ xã tạo điều kiện cho vay vốn, Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông đã mạnh dạn đầu tư thêm 5 máy dệt và các máy xếp sợi, máy cuộn thoi, máy cuộn sợi.
Bà H’Yam Bkrông, Giám đốc Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông chia sẻ, dù sản phẩm của hợp tác xã được cải tiến, mẫu mã thay đổi thường xuyên nhưng nền màu đen và họa tiết màu đỏ sẽ mãi không thay đổi vì đó là bản sắc văn hóa của dân tộc Êđê. Về kinh nghiệm để hợp tác xã ngày càng phát triển, bà H’Yam cho biết, bà và Ban quản trị Hợp tác xã luôn đề cao tính công bằng, minh bạch trong quá trình hoạt động và phân chia lợi nhuận cho xã viên. Ngoài ra, mọi người hợp tác xã còn đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống, kịp thời biểu dương các xã viên điển hình để tạo khí thế sôi nổi trong thi đua sản xuất.
Ngoài nghề dệt thổ cẩm, để tăng thêm thu nhập cho xã viên, hợp tác xã còn xây dựng trang trại nuôi hơn 2.000 con gà thả vườn và khoảng 300 con lợn. Với những lợi thế của địa phương về phát triển du lịch, hiện Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông đã xây dựng khu du lịch cộng đồng trên địa bàn buôn Tơng Jú với 3 nhà sàn trưng bày nhạc cụ, vật dụng lao động sản xuất, dụng cụ dệt vải, dụng cụ săn bắt của đồng bào Êđê. Khách du lịch đến đây, có thể được dệt thổ cẩm, được tham quan trải nghiệm đời sống, thưởng thức món ăn của người Êđê; say sưa trong tiếng cồng, tiếng chiêng, trong hương men rượu cần.
Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ xã Ea Kao Trịnh Thị Tuyết cho biết, Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông là mô hình mà chính quyền địa phương rất tâm đắc. Sự thành công của hợp tác xã hiện nay có sự đóng góp quan trọng của bà H’Yam, một người gương mẫu, giỏi quản lý, nỗ lực học hỏi, nghiên cứu, nắm bắt tốt thông tin thị trường. Những việc làm của bà có lợi cho người dân địa phương và tạo công ăn việc làm cho người dân tộc thiểu số tại chỗ; qua đó người dân đoàn kết, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Bà H’Yam còn là Buôn trưởng buôn Tơng Jú, là người có uy tín với cộng đồng, triển khai được các phong trào thi đua yêu nước đến đông đảo người dân trong buôn.
Với những nỗ lực trong 17 năm qua, Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba năm 2013 vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững. Ngoài ra, hợp tác xã còn được nhận 4 Bằng khen của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk, 3 Bằng khen của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Về dự định trong thời gian tới, bà H’Yam chia sẻ mong muốn giới thiệu bản sắc văn hóa của dân tộc, đời sống của người Êđê đến đông đảo du khách. Tuy nhiên, để đầu tư cho du lịch cộng đồng, kinh phí của hợp tác xã còn eo hẹp, cần sự quan tâm đầu tư của các cấp, các ngành. Hợp tác xã cũng mong muốn được tập huấn, nâng cao kỹ năng, kiến thức về mô hình du lịch cộng đồng; liên kết quảng bá, tiêu thụ cho các sản phẩm thổ cẩm.
Về buôn Tơng Jú, xã Ea Kao, thành phố Buôn Ma Thuột có thể thấy vẻ đẹp lao động miệt mài bên khung dệt của những người phụ nữ Êđê nơi đây. Cũng chính nhờ nghề dệt này, mỗi người phụ nữ am hiểu hơn về bản sắc văn hóa dân tộc để có thể tự tin làm một hướng dẫn viên quảng bá, giới thiệu sản phẩm, cuộc sống thường ngày cho du khách. Hợp tác xã Dệt thổ cẩm Tơng Bông cũng trở thành hợp tác xã kiểu mẫu về tính nhanh nhạy, nắm bắt thị trường song giữ lửa được ngành nghề truyền thống của dân tộc, thiết thực cùng địa phương xóa đói giảm nghèo.
Hoài Thu
Tên tự gọi: Anăk Ea Ðê, Ra Ðê (hay Rhađê), ê Ðê, êgar, Ðê.
Nhóm địa phương: Kpă, Adham, Krung, Mđhur, Ktul, Dliê, Hruê, Bih, Blô, Kah, Kdrao, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Ktlê, Êpan...
Dân số: 331.194 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói của người Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Pôlinêxia (ngữ hệ Nam Ðảo).
Lịch sử: Người Ê Đê là cư dân đã có mặt lâu đời ở miền trung Tây Nguyên. Dấu vết về nguồn gốc hải đảo của dân tộc Ê Đê đã phản ánh lên từ các sử thi và trong nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình dân gian. Cho đến nay, cộng đồng Ê Đê vẫn còn là một xã hội đang tồn tại những truyền thống đậm nét mẫu hệ ở nước ta.
Hoạt động sản xuất: Người Ê Đê chủ yếu trồng lúa rẫy theo chế độ luân khoảnh. Rẫy sau một thời gian canh tác thì bỏ hoá cho rừng tái sinh rồi mới trở lại phát, đốt. Chu kỳ canh tác khoảng từ 5-8 năm tuỳ theo chất đất và khả năng hồi phục của đất. Rẫy đa canh và mỗi năm chỉ trồng một vụ. Ruộng nước trâu quần chỉ có ít nhiều ở vùng Bih ven hồ Lắc.
Gia súc được nuôi nhiều hơn cả là lợn và trâu, gia cầm được nuôi nhiều là gà, nhưng chăn nuôi chủ yếu chỉ để phục vụ cho tín ngưỡng. Nghề thủ công gia đình phổ biến có nghề đan lát mây tre làm đồ gia dụng, nghề trồng bông dệt vải bằng khung dệt kiểu Inđônêdiêng cổ xưa. Nghề gốm và rèn không phát triển lắm. Trước đây việc mua bán, trao đổi bằng phương thức hàng đổi hàng.
Ăn: Người Ê Đê ăn cơm tẻ bằng cách nấu trong nồi đất nung hay nồi đồng cỡ lớn. Thức ăn có muối ớt, măng, rau, củ do hái lượm, cá, thịt, chim thú do săn bắn. Thức uống có rượu cần ủ trong các vò sành. Xôi nếp chỉ dùng trong dịp cúng thần. Nam nữ đều có tục ăn trầu cau.
Mặc: Trang phục truyền thống là phụ nữ quấn váy tấm dài đến gót, mùa hè thì ở trần hay mặc áo ngắn chui đầu. Nam giới thì đóng khố, mặc áo cánh ngắn chui đầu. Mùa lạnh, nam nữ thường choàng thêm một tấm mền. Ðồ trang sức có chuỗi hạt, vòng đồng, vòng kền đeo ở cổ và tay, chân. Nam nữ đều có tục cà răng-căng tai và nhuộm đen răng. Ðội đầu có khăn, nón.
Ở: Ðịa bàn cư trú chủ yếu hiện nay là tỉnh Ðắk Lắk, phía nam tỉnh Gia Lai và miền tây Phú Yên, Khánh Hòa. Ngôi nhà truyền thống của người Ê Đê là nhà sàn dài, kiến trúc mô phỏng hình thuyền với 2 đặc trưng cơ bản là: hai vách dọc dựng thượng thách - hạ thu; hai đầu mái nhô ra. Nhà chỉ có hai hàng cột ngang, kết cấu theo vì cột, không kết cấu theo vì kèo. Không gian nội thất chia ra làm hai phần theo chiều dọc. Phần đầu gọi là Gah, vừa là phòng khách, vừa là nơi sinh hoạt cộng đồng của cả đại gia đình mẫu hệ. Phần cuối gọi là ôk, dành cho các cặp hôn nhân ở trong từng buồng có vách ngăn bằng phên nứa.
Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu là gùi đan cõng trên lưng bằng đôi quai quàng qua vai. ở vùng Krông Băk phổ biến có loại gùi cao cẳng. Vận chuyển trên bộ thì có voi nhưng không phổ biến lắm.
Quan hệ xã hội: Gia đình Ê Đê là gia đình mẫu hệ, hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con mang họ mẹ, con gái út là người thừa kế. Xã hội Ê Đê vận hành theo tập quán pháp truyền của tổ chức gia đình mẫu hệ. Cả cộng đồng được chia làm hai hệ dòng để thực hiện hôn nhân trao đổi. Làng gọi là buôn và là đơn vị cư trú cơ bản, cũng là tổ chức xã hội duy nhất. Người trong một buôn thuộc về nhiều chi họ của cả hai hệ dòng nhưng vẫn có một chi họ là hạt nhân. Ðứng đầu mỗi làng có một người được gọi là chủ bến nước (Pô pin ca) thay mặt vợ điều hành mọi hoạt động của cộng đồng.
Cưới xin: Người phụ nữ chủ động trong việc hôn nhân, nhờ mai mối hỏi chồng và cưới chồng về ở rể. Khi một trong hai người qua đời thì gia đình và dòng họ của người quá cố phải có người đứng ra thay thế theo tục "nối dòng" (chuê nuê) để cho người sống không bao giờ đơn lẻ, sợi dây luyến ái giữa hai dòng họ Niê và Mlô không có chỗ nào bị đứt theo lời truyền bảo của ông bà xưa.
Ma chay: Khi có người chết thì tục nối dòng phải được thực hiện. Người chết già và chết bệnh thì tang lễ được tổ chức tại nhà rồi đưa ra nghĩa địa thổ táng. Xưa kia có tục người trong một dòng họ chết trong một thời gian gần nhau thì các quan tài được chôn chung một huyệt. Vì quan niệm thế giới bên kia là sự tái hiện thế giới bên này nên người chết được chia tài sản đặt ở nhà mồ. Khi dựng nhà mồ, lễ bỏ mả được tổ chức linh đình, sau đó là sự kết thúc việc săn sóc vong linh và phần mộ.
Nhà mới: Việc làm nhà được cả làng quan tâm. Sự giúp đỡ lẫn nhau về nguyên vật liệu: gỗ, tre, nứa và tranh lợp cũng như ngày công thông qua hình thức gọi là H’rim zít (tổ chức "giúp công" lao động hay "đổi công" trong làng). Lễ khánh thành được tiến hành sau khi dựng xong hàng cây chân vách. Nhưng việc dọn lên nhà mới có thể được thực hiện trước đó một thời gian dài khi các điều kiện để khánh thành nhà chưa cho phép. Nữ giới là đoàn người đầu tiên được bước lên sàn nhà mới. Họ mang theo nước và lửa để sưởi ấm và tưới mát cho nơi cư trú mới mẻ này. Ðó là cách chúc phúc cho ngôi nhà và các thành viên của gia chủ. Dẫn đầu các thành viên nữ là một khoa sang – bà chủ của gia đình mẫu hệ.
Lễ Tết: Người Ê Đê ăn tết vào tháng chạp (tháng 12 lịch âm) khi mùa màng đã thu hoạch xong (không vào một ngày nhất định, tuỳ theo từng buôn). Sau tế ăn mừng cơm mới (hmạ ngắt) rồi mới đến tết (mnăm thun) ăn mừng vụ mùa bội thu. Ðó là tết lớn nhất, nhà giàu có khi mổ trâu, bò để cúng thần lúa; nhà khác thì mổ lợn gà. Vị thần lớn nhất là đấng sáng tạo Aê Ðiê và Aê Ðu rồi đến thần đất (yang lăn), thần lúa (yang mđiê) và các thần linh khác. Phổ biến quan niệm vạn vật hữu linh. Các vị thần nông được coi là phúc thần. Sấm, sét, giông bão, lũ lụt và ma quái được coi là ác thần. Nghi lễ theo đuổi cả đời người và lễ cầu phúc, lễ mừng sức khoẻ cho từng cá nhân. Ai tổ chức được nhiều nghi lễ này và nhất là những nghi lễ lớn hiến sinh bằng nhiều trâu, bò, chè quý (vò ủ rượu cần) thì người đó càng được dân làng kính nể.
Lịch: Nông lịch cổ truyền Ê Đê được tính theo tuần trăng: một năm có 12 tháng và được chia làm 9 mùa tương ứng với 9 công đoạn trong chu kỳ nông nghiệp rẫy: mùa phát rẫy, mùa đốt rẫy mới, mùa xới đất, mùa diệt cỏ... Mỗi tháng có 30 ngày.
Học: Việc học tập (học nghề, truyền bá kiến thức...) theo lối làm mẫu, bắt chước và nhập tâm, truyền khẩu. Ðến năm 1923 mới xuất hiện chữ Ê Đê theo bộ vần chữ cái La-tinh.
Văn nghệ: Có hình thức kể khan rất hấp dẫn. Về văn chương, khan là sử thi, trường ca cổ xưa; về hình thức biểu diễn là loại ngâm kể kèm theo một số động tác để truyền cảm. Về dân ca có hát đối đáp, hát đố, hát kể gia phả... Nền âm nhạc Ê Đê nổi tiếng ở bộ cồng chiêng gồm 6 chiêng bằng, 3 chiêng núm, một chiêng giữ nhịp và một trống cái mặt da. Không có một lễ hội nào, một sinh hoạt văn hoá nào của cộng đồng lại có thể vắng mặt tiếng cồng chiêng. Bên cạnh cồng chiêng là các loại nhạc cụ bằng tre nứa, vỏ bầu khô như các dân tộc khác ở Trường Sơn, Tây Nguyên, nhưng với ít nhiều kỹ thuật riêng mang tính độc đáo.
Chơi: Trẻ em thường thích chơi cù quay, thả diều vằng có sáo trúc. Trò chơi đi cà kheo trên cao nguyên cũng lôi cuốn không ít thiếu niên Ê Đê ở nhiều nơi. Trò bịt mắt dê, ném lao (ném xa và ném trúng mục tiêu cũng được nhiều trẻ em Ê Đê ưa thích.
Theo cema.gov.vn