Các nhà khoa học tại Trường Y thuộc Đại học Washington của Mỹ đã theo dõi giấc ngủ tại nhà trong khoảng 1 tuần đối với 119 người ngoài 60 tuổi, trong đó 80% khỏe mạnh về trí não và số còn lại nhận thức kém hơn. Những người tham gia được cung cấp máy đo điện não đồ EEG để gắn lên trán, giúp ghi lại các sóng não khi ngủ, và một thiết bị cảm biến giống đồng hồ đeo tay để theo dõi chuyển động của cơ thể. Ngoài ra, những người này còn phải lập một nhật ký giấc ngủ, ghi chép đầy đủ về các giấc ngủ ban đêm và cả những lần chợp mắt ban ngày của bản thân.
Các nhà nghiên cứu còn đo mức độ protein amyloid beta và protein tau trong não bộ, cũng như trong dịch não tủy. 38 người đã tham gia chụp cắt lớp não bộ PET để xác định 2 loại protein trên; 104 người tình nguyện lấy dịch tủy sống để cung cấp dịch não tủy cho quá trình phân tích; trong khi 27 người còn lại tiến hành cả hai phương pháp.
Sau khi tính đến các yếu tố như giới tính, độ tuổi và các chuyển động trong lúc ngủ, nhóm nghiên cứu nhận thấy tình trạng giấc ngủ sâu giảm sút có liên quan đến mức độ protein tau ngày càng tăng cao trong não bộ cũng như tỷ lệ gia tăng cao cả protein và protein amyloid trong dịch não tủy. Trên thực tế, những người có protein tau gia tăng thường ngủ nhiều về đêm và cũng có nhiều lần chợp mắt vào ban ngày hơn so với những người bình thường, song chất lượng giấc ngủ của họ không tốt.
Nhóm nghiên cứu cho biết việc xác định giấc ngủ của con người có thể là một cách để theo dõi chứng bệnh Alzheimer trước hoặc chỉ khi gia tăng các vấn đề về trí nhớ và tư duy. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho rằng máy theo dõi giấc ngủ vẫn chưa thể thay thế được phương pháp chụp cắt lớp não bộ và phân tích dịch não tủy để giúp xác định sớm các dấu hiệu của bệnh.
Những thay đổi não bộ dẫn đến Alzheimer - một chứng bệnh ảnh hưởng tới 5,7 triệu người Mỹ - thường khởi phát chậm, "thầm lặng" và thường phải mất tới 2 thập kỷ các triệu chứng đặc trưng của tình trạng suy giảm và rối loạn trí nhớ mới xuất hiện. Cho đến nay, chưa có phương pháp trị liệu nào có thể ngăn chặn hoặc làm chậm quá trình diễn tiến của bệnh.
Các nhà nghiên cứu còn đo mức độ protein amyloid beta và protein tau trong não bộ, cũng như trong dịch não tủy. 38 người đã tham gia chụp cắt lớp não bộ PET để xác định 2 loại protein trên; 104 người tình nguyện lấy dịch tủy sống để cung cấp dịch não tủy cho quá trình phân tích; trong khi 27 người còn lại tiến hành cả hai phương pháp.
Sau khi tính đến các yếu tố như giới tính, độ tuổi và các chuyển động trong lúc ngủ, nhóm nghiên cứu nhận thấy tình trạng giấc ngủ sâu giảm sút có liên quan đến mức độ protein tau ngày càng tăng cao trong não bộ cũng như tỷ lệ gia tăng cao cả protein và protein amyloid trong dịch não tủy. Trên thực tế, những người có protein tau gia tăng thường ngủ nhiều về đêm và cũng có nhiều lần chợp mắt vào ban ngày hơn so với những người bình thường, song chất lượng giấc ngủ của họ không tốt.
Nhóm nghiên cứu cho biết việc xác định giấc ngủ của con người có thể là một cách để theo dõi chứng bệnh Alzheimer trước hoặc chỉ khi gia tăng các vấn đề về trí nhớ và tư duy. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho rằng máy theo dõi giấc ngủ vẫn chưa thể thay thế được phương pháp chụp cắt lớp não bộ và phân tích dịch não tủy để giúp xác định sớm các dấu hiệu của bệnh.
Những thay đổi não bộ dẫn đến Alzheimer - một chứng bệnh ảnh hưởng tới 5,7 triệu người Mỹ - thường khởi phát chậm, "thầm lặng" và thường phải mất tới 2 thập kỷ các triệu chứng đặc trưng của tình trạng suy giảm và rối loạn trí nhớ mới xuất hiện. Cho đến nay, chưa có phương pháp trị liệu nào có thể ngăn chặn hoặc làm chậm quá trình diễn tiến của bệnh.
Minh Tâm