Nâng cao đời sống đồng bào Khmer gắn với phát huy bản sắc văn hóa

Nâng cao đời sống đồng bào Khmer gắn với phát huy bản sắc văn hóa

Đồng bằng sông Cửu Long có trên 220 xã thuộc vùng dân tộc thiểu số; trong đó, đồng bào Khmer khoảng 1,2 triệu người, chiếm 6,7% dân số cả nước… Nhờ sự nỗ lực của người dân cùng những quan tâm đầu tư, hỗ trợ của các cấp, ngành, đời sống của bà con vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số đã có nhiều bước tiến đáng kể, hòa nhịp phát triển của toàn vùng.

Nâng cao đời sống đồng bào Khmer gắn với phát huy bản sắc văn hóa ảnh 1Lễ dâng y Kathina của đồng bào dân tộc Khmer tại Hậu Giang. Ảnh: Hồng Thái - TTXVN
  Tạo sự phát triển toàn diện

Theo ông Nguyễn Trung Nhân, Ủy viên Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban MTTQ thành phố Cần Thơ, việc phát triển sinh kế, cải thiện đời sống người dân cùng với bảo tồn các giá trị văn hóa của đồng bào các dân tộc ở Đồng bằng sông Cửu Long luôn được quan tâm triển khai. Các chính sách dân tộc, trong đó có Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 và nhiều chương trình, dự án đã phát huy hiệu quả, góp phần phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bước nâng cao đời sống đồng bào.

Ở Đồng bằng sông Cửu Long, các xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số đều có trường Trung học Cơ sở, trạm Y tế và đường ô tô đến trung tâm xã; 100% xã, phường, thị trấn, các khóm (ấp) có điện lưới quốc gia; hộ dân nông thôn sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 99,6%... Các địa phương có chương trình, đề án bảo tồn và phát huy giá trị nghệ thuật truyền thống Khmer, từng bước đưa nghệ thuật truyền thống này thành sản phẩm du lịch đặc trưng.

Nâng cao đời sống đồng bào Khmer gắn với phát huy bản sắc văn hóa ảnh 2Giao thông nông thôn vùng đồng bào dân tộc Khmer xã Vĩnh Quới (thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng) được đầu tư khang trang, thuận lợi giao thương hàng hóa. Ảnh Tuấn Phi-TTXVN

Phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ tỉnh Sóc Trăng Lưu Văn Xem thông tin, đồng bào dân tộc thiểu số ở Sóc Trăng chiếm trên 35,4% dân số của tỉnh; trong đó, riêng dân tộc Khmer chiếm trên 30% dân số toàn tỉnh. Địa phương luôn quan tâm triển khai các nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước về đầu tư phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Các địa phương quan tâm hỗ trợ nhà, đất ở, đất sản xuất, chuyển đổi ngành nghề, cho vay vốn phát triển sản xuất, nâng cao đời sống cho đồng bào, đặc biệt là thực hiện các chương trình mục tiêu Quốc gia... Đến cuối năm 2022, Sóc Trăng đã giảm được 7.270 hộ nghèo (tương đương 2,19%), trong đó có trên 3.000 hộ Khmer.

Đại diện Ban Dân tộc thành phố Cần Thơ cho biết, thành phố có 27 thành phần dân tộc thiểu số sinh sống, chiếm trên 3% dân số. Đồng bào dân tộc Khmer có gần 23.700 người, chiếm trên 62% tổng số người dân tộc thiểu số toàn thành phố. Các chương trình tập huấn, đào tạo nghề cho người lao động dân tộc thiểu số, trong đó có người Khmer được thành phố thực hiện hiệu quả. Là nơi có tốc độ đô thị hóa nhanh, gặp nhiều khó khăn, song Cần Thơ vẫn quan tâm đầu tư xây dựng 3 khu dân cư, bố trí đất ở cho trên 250 hộ dân tộc thiểu số.

Nâng cao đời sống đồng bào Khmer gắn với phát huy bản sắc văn hóa ảnh 3Cơ giới hóa được rộng khắp giúp cho việc sản xuất, thu hoạch của đồng bào Khmer ngày càng hiệu quả. Ảnh: Chanh Đa-TTXVN

Đời sống ngày càng được nâng cao là điều kiện thuận lợi để đồng bào Khmer thụ hưởng văn hóa tinh thần. Nhiều loại hình văn hóa - nghệ thuật truyền thống trước đây có nguy cơ mai một, nay đã được phục hồi, trở thành “món ăn tinh thần” không thể thiếu của người dân nơi đây. Nhiều lễ hội văn hóa, nghi thức tôn giáo được gìn giữ, đồng thời trở thành các sản phẩm du lịch văn hóa độc đáo như: lễ mừng năm mới (Chôl Chnăm Thmây), lễ giỗ ông bà quá cố (Sene Dolta)...

Là người có uy tín trong đồng bào dân tộc Khmer, ông Danh Văn Sanh (51 tuổi, quận Ninh Kiều, Cần Thơ) chia sẻ, từ chỗ là hộ nghèo không có nghề trong tay, gia đình ông đã mở dịch vụ nước giải khát và điểm tâm bình dân tại nhà. Sau đó, ông đi học nghề và làm thợ hàn. Ngoài cần cù, nỗ lực của bản thân, ông còn nhận được sự giúp đỡ kịp thời của chính quyền địa phương, tạo điều kiện thuận lợi, động viên gia đình phát triển kinh tế. Hiện, cuộc sống gia đình ông đã khấm khá hơn. Không chỉ riêng gia đình ông, nhiều hộ Khmer ở địa phương luôn được các cấp chính quyền, đoàn thể quan tâm, có chủ trương, chính sách phù hợp để ổn định và phát triển.

Bảo tồn giá trị văn hóa gắn với tạo sinh kế bền vững


Tiếp tục bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa và tạo sinh kế bền vững cho đồng bào Khmer Đồng bằng sông Cửu Long, theo Chủ tịch Ủy ban MTTQ thành phố Cần Thơ Nguyễn Trung Nhân, các ngành, đoàn thể cần tăng cường hoạt động bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu, phù hợp với điều kiện mới. Các địa phương khuyến khích cộng đồng tham gia bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, ngăn chặn nguy cơ làm mai một, sai lệch hoặc thất truyền. Các địa phương cần chú ý gắn kết bảo tồn với hoạt động du lịch để vừa tạo sinh kế, góp phần giảm nghèo, vừa tạo ý thức cho chính cộng đồng trong phát huy, trao truyền và thực hành các giá trị văn hóa đặc trưng, tiêu biểu.

Nâng cao đời sống đồng bào Khmer gắn với phát huy bản sắc văn hóa ảnh 4Cộng đồng của người Khmer ở tỉnh Cà Mau đã giữ gìn một kho tàng văn hóa nghệ thuật vô cùng phong phú, đa dạng, đa sắc màu riêng biệt. Ảnh: Huỳnh Anh - TTXVN

Quan tâm yếu tố gắn kết phát huy bản sắc văn hóa với phát triển kinh tế, ông Phan Văn Giàu, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Long cho rằng, nếu chỉ làm tốt công tác bảo tồn là chưa đủ. Do đó, yêu cầu đặt ra là làm thế nào để các giá trị văn hóa truyền thống nói chung và giá trị văn hóa của đồng bào Khmer nói riêng được khai thác, phục vụ nhu cầu phát triển sinh kế bền vững. Đây là một quá trình “kinh tế hóa” các giá trị văn hóa, trong mối tương quan văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời vừa bảo tồn, thích nghi và chống các hiện tượng thương mại hóa, làm phai nhạt hoặc biến chất các giá trị văn hóa truyền thống.

Theo ông Phan Văn Giàu, người Khmer lấy sản xuất nông nghiệp làm nghề chính, chủ yếu là trồng lúa nước, hoa màu. Nghề thủ công truyền thống là một thế mạnh; trong đó, nổi bật là nghề chạm khắc gỗ trầm lục, đan lát… Cùng với đó, nhiều lễ hội truyền thống được người dân gìn giữ, thực hành thường xuyên như: Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây, Lễ hội đua ghe Ngo, Lễ hội Sene Dolta. Hệ thống ngôn ngữ, chữ viết, kho tàng văn nghệ dân gian, các nghi lễ tôn giáo, nghi lễ truyền thống được bảo tồn và kế thừa qua các thế hệ. Toàn tỉnh hiện có 13 ngôi chùa Khmer; trong đó có 6 ngôi chùa đã được công nhận là di tích cấp tỉnh, 4 nghệ nhân dân tộc Khmer được Nhà nước vinh danh là Nghệ nhân Ưu tú.

Việc phát triển du lịch tại các điểm chùa Khmer ở Vĩnh Long đã được các doanh nghiệp lữ hành đưa vào chương trình tham quan phục vụ du khách. Thời gian tới, các hoạt động lễ hội, nghề thủ công truyền thống, ẩm thực dân gian Khmer, trình diễn nghệ thuật, trang phục, lễ hội Khmer… tiếp tục được đưa vào phát triển du lịch, nâng cao thu nhập cho cộng đồng; đồng thời, thúc đẩy các ngành nghề, dịch vụ khác ở địa phương phát triển. Tỉnh sẽ xây dựng đề án phát triển du lịch cộng đồng trong vùng đồng bào Khmer. Tỉnh chú trọng phát huy giá trị các loại hình âm nhạc, lễ hội, ẩm thực, nghề truyền thống và trò chơi dân gian để vừa giữ gìn bản sắc dân tộc, lan tỏa tinh thần bảo tồn các giá trị truyền thống, đồng thời tạo thêm sản phẩm du lịch, điều kiện cho đồng bào có công việc ổn định tại nơi cư trú. Vĩnh Long cũng xây dựng các chuỗi liên kết dịch vụ, sản phẩm phục vụ du lịch, hình thành tour, tuyến du lịch bền vững tại các di tích lịch sử văn hóa vùng đồng bào dân tộc Khmer.

Phát huy vai trò các cơ sở đào tạo, Tiến sỹ Ngô Sô Phe, Trường Đại học Trà Vinh đề xuất, hiện nay, trường được Thủ tướng Chính phủ giao là đơn vị thực hiện nhiệm vụ trọng điểm Quốc gia đào tạo nhân lực về ngôn ngữ - văn hóa - nghệ thuật Khmer Nam Bộ, góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer, phục vụ phát triển toàn diện kinh tế - xã hội Đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, hàng năm, UBND các tỉnh, thành phố thống kê, rà soát lại đội ngũ giáo viên dạy tiếng Khmer ở địa phương và phối hợp với trường mở các lớp đào tạo theo dạng “đặt hàng” ngành Sư phạm ngữ văn Khmer, ngôn ngữ Khmer, văn hóa học hoặc biểu diễn nhạc cụ truyền thống, bồi dưỡng nâng cao trình độ tiếng Khmer cho công chức, viên chức của địa phương, đảm bảo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển. Các địa phương đẩy mạnh tuyên truyền để người dân nâng cao ý thức, trách nhiệm đối với bảo tồn, phát huy và phát triển các giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Khmer. Các đơn vị chức năng tiếp tục đề xuất giải pháp tăng cường gắn kết bảo tồn và phát triển, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Theo bà Lê Thị Thanh Giang, Chủ tịch Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị thành phố Cần Thơ, trong dòng chảy hội nhập và phát triển hiện nay, những di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc ngày càng có sự giao thoa; do đó, cần tích cực truyền thông điệp để thế hệ trẻ giữ gìn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc. Liên hiệp các tổ chức Hữu nghị thành phố Cần Thơ tiếp tục phối hợp Ủy ban MTTQ, Ban Dân tộc thành phố triển khai hiệu quả Đề án tăng cường hợp tác quốc tế hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn; phối hợp tuyên truyền, vận động hội viên và các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số củng cố mối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần cùng chính quyền địa phương phát triển kinh tế - xã hội.

Thanh Trà

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm