Cô gái Khmer Thạch Thị Ni Ta tâm huyết với những điệu múa của dân tộc

Cô gái Khmer Thạch Thị Ni Ta tâm huyết với những điệu múa của dân tộc

Sinh ra và lớn lên ở vùng quê có đông đồng bào Khmer - xã Tân Mỹ, huyện Trà Ôn, từ nhỏ, Thạch Thị Ni Ta (sinh năm 1997, thành viên Tổ ca múa dân tộc Khmer - Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Long) đã có dịp tiếp xúc và nuôi dưỡng niềm đam mê với những điệu múa của đồng bào mình trong các dịp lễ, tết truyền thống. Bằng nhiệt huyết và tình yêu dành cho môn nghệ thuật múa của dân tộc, Ni Ta đã nỗ lực trau dồi những kỹ năng, trở thành diễn viên múa với nhiều thành tích. Cô gái trẻ này là người truyền cảm hứng, lan tỏa bộ môn nghệ thuật này đến các bạn trẻ, các em nhỏ đồng bào Khmer, góp phần gìn giữ và phát huy bộ môn nghệ thuật truyền thống của dân tộc.

Cô gái Khmer Thạch Thị Ni Ta tâm huyết với những điệu múa của dân tộc ảnh 1Chị Thạch Thị Ni Ta tập múa cùng các thành viên Tổ ca múa dân tộc Khmer thuộc Trung Tâm Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: Lê Thúy Hằng - TTXVN

Thạch Thị Ni Ta chia sẻ, từ nhỏ, mỗi lần nhìn thấy các anh chị, diễn viên của các đoàn nghệ thuật đến ca, múa, em rất thích và về nhà tự luyện tập theo. Đến năm lớp 8, em được tạo điều kiện tham gia các hoạt động múa ở trường và lớp năng khiếu, từ đó có thêm động lực, tự tin tham gia múa hát mỗi khi ở địa phương có lễ, tiệc.

Cô gái Khmer Thạch Thị Ni Ta tâm huyết với những điệu múa của dân tộc ảnh 2Chị Thạch Thị Ni Ta dạy múa cho các em nhỏ đồng bào Khmer tại xã Tân Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: Lê Thúy Hằng - TTXVN

Để trau dồi và theo đổi đam mê, Ni Ta đã quyết tâm đi đỗ vào ngành Múa dân tộc, Trường Đại học Trà Vinh. Em đã nỗ lực trong thời gian dài, luyện tập từng động tác tay, chân, lưng… cho đến việc hiểu và cảm thụ nhạc để có thể truyền tải được “cái hồn” qua từng điệu múa, cử chỉ. Rời giảng đường Đại học, Ni Ta "bén duyên" với Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Long, tham gia nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ đồng bào dân tộc trong các dịp lễ, tết cổ truyền của đồng bào Khmer và trở thành một trong những diễn viên múa nòng cốt của Tổ ca múa dân tộc Khmer. 

Năm 2018, Thạch Thị Ni Ta có dịp tham gia các lớp đào tạo múa cho thanh, thiếu niên các địa phương có đông đồng bào Khmer do Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật tỉnh tổ chức. Nhận thấy các em còn ít được tiếp xúc với nghệ thuật múa truyền thống, chính vì thế, không ngại khó khăn, em đã đến các thôn xóm truyền dạy những hiểu biết về nghệ thuật múa của dân tộc, các kỹ năng và điệu múa truyền thống của dân tộc. Dù đã hết thời gian khóa học, cô gái trẻ luôn tranh thủ những dịp rảnh hoặc ngày về quê sẽ tập hợp các bạn trẻ lại để ôn tập, dạy thêm các bài múa mới. Đến với lớp học múa, Ni Ta không chỉ uốn nắn từng động tác, phân tích từng cử chỉ cho các em mà còn khuyến khích, tạo điều kiện để các em tham gia nhiều hội thi, hội diễn để vừa trau dồi kỹ năng vựa tăng thêm đam mê, động lực theo đuổi bộ môn này.

Cô gái Khmer Thạch Thị Ni Ta tâm huyết với những điệu múa của dân tộc ảnh 3Chị Thạch Thị Ni Ta dạy múa cho các em nhỏ tại xã Tân Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: Lê Thúy Hằng - TTXVN

Ni Ta chia sẻ: “Mình có điều kiện học tập, thành thạo nhiều điệu múa nên truyền lại cho các em. Sau các lớp dạy múa, các em được tham gia biểu diễn, hội thi đạt thành tích cao. Đây là sân chơi bổ ích cho các em để được trải nghiệm, thể hiện những năng khiếu của mình và là dịp để thế hệ trẻ lan tỏa bản sắc văn hóa dân tộc Khmer đến với mọi người”.

Em Thạch Thị Hồng Thắm (xã Tân Mỹ, huyện Trà Ôn) đã theo học lớp múa do cô giáo Ni Ta dạy đã hơn 7 tháng và đã thành thạo được nhiều động tác. Thắm rất háo hức mỗi khi cô giáo thông báo đến ngày tập hợp để ôn tập hoặc tham gia biểu diễn. “Ở nhà, mẹ em biết múa nhưng không có thời gian để chỉ lại em, cũng không có nhiều bài múa như cô Ni Ta dạy. Học lớp của cô Ni Ta, em biết được nhiều động tác múa, có thể tự tin tham gia biểu diễn tại các buổi văn nghệ trong trường học hoặc các điểm chùa”, Thắm chia sẻ.

Ông Thạch Nên, xã Tân Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long phấn khởi khi các em nhỏ của xã Tân Mỹ có điều kiện để tham gia học tập nghệ thuật múa truyền thống của dân tộc. Theo ông, múa là hoạt động không thể thiếu trong mỗi dịp lễ, tết, góp phần phục vụ đời sống tinh thần cho đồng bào dân tộc Khmer. Việc các em nhỏ được hướng dẫn những bài múa truyền thống, tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ là rất bổ ích, giúp các em gìn giữ và phát huy bộ môn này.

Với sự nỗ lực, miệt mài trau dồi, Thạch Thị Ni Ta đã đạt được những thành tích quan trọng trong quá trình theo đuổi đam mê của mình như: Huy chương Vàng tiết mục “Nghi thức lễ cưới truyền thống của đồng bào Khmer” trong hội thi tuyên truyền lưu động toàn quốc “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” tại Bà Rịa - Vũng Tàu (11/2020); Huy chương Đồng tiết mục múa “Tình đất” tại Hội thi “Tài năng trẻ học sinh, sinh viên các cơ sở đào tạo Văn hóa Nghệ thuật toàn quốc năm 2020” tại Thừa Thiên - Huế (12/2020); giải B trình diễn trích đoạn lễ hội, nghi thức sinh hoạt văn hóa truyền thống tại Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào Khmer Nam Bộ lần thứ VIII, năm 2022 tổ chức ở Sóc Trăng... Năm 2021, Thạch Thị Ni Ta được Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long tặng Bằng khen với thành tích đạt giải các Hội thi cấp tỉnh, khu vực và toàn quốc năm 2020.

Ông Lê Hoàng Nam, Phó Giám đốc Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Long nhận định, Ni Ta là một diễn viên múa đã gặt hái được nhiều thành công với nhiều giải thưởng. Là một người con của đồng bào Khmer, Ni Ta đã thể hiện trách nhiệm và tâm huyết khi dành nhiều thời gian đến các địa phương để chia sẻ cho các bạn trẻ, các em nhỏ những hiểu biết về nghệ thuật múa của dân tộc, hướng dẫn tập luyện từng động tác, giúp các em tiến bộ mỗi ngày. Sự nỗ lực, bồi dưỡng Ni Ta của đã góp phần tạo lực lượng trẻ tham gia vào phong trào văn hóa, văn nghệ ở các xã có đông đồng bào Khmer.

Trong năm 2023, Trung tâm Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Long sẽ tiếp tục tham mưu mở thêm các lớp múa và thành lập 6 đội văn nghệ ở các địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Theo đó, Trung tâm sẽ tạo điều kiện để Thạch Thị Ni Ta đến với các lớp dạy múa để truyền đam mê và bồi dưỡng năng khiếu nghệ thuật cho các bạn trẻ đồng bào Khmer, tổ chức các sân chơi, hội diễn để lực lượng này được tham gia thể hiện năng lực, từ đó phát hiện và bồi dưỡng, góp phần đào tạo lực lượng trẻ, xây dựng được phong trào văn hóa, nghệ thuật tại các địa phương có đồng bào Khmer sinh sống.

Lê Thúy Hằng

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm