Bảo tồn và phát huy chữ viết, tiếng nói đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng

Bảo tồn và phát huy chữ viết, tiếng nói đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng

Lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Sóc Trăng thông tin, năm học 2022 - 2023, toàn tỉnh có 131 trường có dạy tiếng Khmer, với 1.319 lớp và 44.416 học sinh. Cấp Tiểu học có 91 trường với 929 lớp. Cấp Trung học Cơ sở 33 trường với 346 lớp. Cấp Trung học Phổ thông có 7 trường, 44 lớp. Đặc biệt, dịp Hè, 67 chùa Phật giáo Nam Tông Khmer trong tỉnh tổ chức dạy tiếng Khmer với 197 lớp thu hút có 4.455 học sinh tham gia học tập.

Bảo tồn và phát huy chữ viết, tiếng nói đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng ảnh 1Học sinh là đồng bào dân tộc Khmer tham gia các lớp học tại các chùa Phật giáo Nam Tông Khmer trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: Tuấn Phi-TTXVN

Đại Đức Sơn Phước Lợi, Trụ trì chùa Ô Chum (thị xã Ngã Năm) cho biết, dịp Hè, chùa mở hai lớp (dạy chữ Khmer) với gần 100 học sinh là con em của người dân tộc ở địa phương. Tuy còn nhiều khó khăn nhưng các em theo học đều nghiêm túc và cố gắng trong học tập với mong muốn giữ gìn chữ viết, tiếng nói của dân tộc.

Đại đức Sơn Phước Lợi cho biết thêm, chính quyền địa phương luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện cho nhà chùa như hỗ trợ bàn ghế, dụng cụ học tập… đặc biệt, những vị sư dạy chữ tại nhà chùa được hỗ trợ một phần kinh phí. Từ đó, các vị sư và đồng bào Khmer trong phum, sóc rất phấn khởi bởi được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước.

Bảo tồn và phát huy chữ viết, tiếng nói đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng ảnh 2Các vị sư Chùa Ô Chum (thị xã Ngã Năm), tỉnh Sóc Trăng, dạy chữ cho con em đồng bào dân tộc ở tại địa phương. Ảnh: Tuấn Phi-TTXVN

Đại Đức Lâm Hiệp, Trụ trì chùa Tum Núp (huyện Châu Thành) cho biết, để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết của đồng bào Khmer, hàng năm, chùa tổ chức dạy, học chữ viết, tiếng nói cho các vị sư (tu tại chùa) và một số chùa lân cận. Việc dạy, học tiếng Khmer luôn được chính quyền địa phương, Phật tử ủng hộ, khuyến khích...

Ông Danh Hoàng Nguyên, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo cho biết, Sở phối hợp với Ban Dân tộc trình Ủy ban nhân dân tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 17/2019/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định chính sách đặc thù hỗ trợ người dạy tiếng và chữ Khmer vào dịp Hè. Sau 3 năm thực hiện, Sóc Trăng đã chi hơn 3,2 tỷ đồng hỗ trợ theo Nghị quyết số 17/2019/NQ-HĐND.

Bảo tồn và phát huy chữ viết, tiếng nói đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng ảnh 3Một lớp học chữ Khmer tại Chùa Ô Chum (thị xã Ngã Năm), tỉnh Sóc Trăng. Ảnh: Tuấn Phi-TTXVN

Lãnh đạo ngành Giáo dục và Đào tạo tỉnh Sóc Trăng thông tin thêm, Nghị quyết số 17/2019/NQ-HĐND là chính sách đặc thù riêng có của tỉnh, thể hiện sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đến người dạy tiếng dân tộc thiểu số tại các điểm chùa và cơ sở giáo dục ngoài công lập. Qua đó, bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết của đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh. Ngành Giáo dục và Đào tạo Sóc Trăng tham mưu UBND tỉnh tiếp tục có chính sách ưu đãi, hỗ trợ phù hợp đối với người dạy chữ và tiếng của đồng bào dân tộc thời gian tới.

Trong năm học 2023 - 2024, ngành tiếp tục kiện toàn cơ sở vật chất trường lớp học tại 131 trường (vừa dạy chương trình phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo và dạy chữ, tiếng Khmer) và 10 trường Phổ thông Dân tộc nội trú trên địa bàn. Cùng với đó, ngành khuyến khích các chùa Nam Tông Khmer trên địa bàn tỉnh tiếp tục dạy chữ, tiếng nói đồng bào Khmer trong dịp Hè những năm tiếp theo.

Tuấn Phi

(TTXVN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm