TTXVN nghiệm thu đề tài nghiên cứu, ứng dụng font chữ Khmer Unicode trong xuất bản báo chí

TTXVN nghiệm thu đề tài nghiên cứu, ứng dụng font chữ Khmer Unicode trong xuất bản báo chí

Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học (NCKH) cấp ngành của Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) vừa tổ chức phiên họp đánh giá cuối kỳ nhiệm vụ NCKH với đề tài “Nghiên cứu ứng dụng bộ gõ và bộ font chữ Khmer Unicode trong quy trình sản xuất báo in và báo điện tử của TTXVN” do Cơ quan TTXVN khu vực phía Nam chủ trì, triển khai thực hiện từ năm 2018 đến nay.

TTXVN nghiệm thu đề tài nghiên cứu, ứng dụng font chữ Khmer Unicode trong xuất bản báo chí ảnh 1Quang cảnh phiên họp đánh giá, nghiệm thu đề tài “Nghiên cứu ứng dụng bộ gõ và bộ font chữ Khmer Unicode trong quy trình sản xuất báo in và báo điện tử của TTXVN” được tổ chức dưới hình thức trực tuyến tại đầu cầu TP.HCM

Báo cáo trước Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài NCKH cấp ngành của TTXVN dưới hình thức trực tuyến giữa hai đầu cầu Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), ông Nguyễn Quốc Tuấn, Giám đốc Cơ quan TTXVN khu vực phía Nam, Chủ nhiệm đề tài cho biết: Trên cơ sở nội dung phiên họp và biên bản đánh giá giữa kỳ của Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài NCKH cấp ngành của TTXVN, trong thời gian qua, các thành viên đề tài đã khẩn trương, nghiêm túc thực hiện các nội dung, phần việc còn lại và mới phát sinh từ thực tiễn nghiên cứu của đề tài, xoay quanh các ý kiến đánh giá, nhận xét của các thành viên hội đồng.

Qua đó, nhóm nghiên cứu đã điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện báo cáo tổng hợp đề tài, tập trung chủ yếu vào các phần việc sắp xếp lại bố cục, nội dung các chương mục theo hướng đảm bảo cân đối giữa cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp; tăng hàm lượng và tính cô đọng của thông tin thông qua các biểu đồ, bảng biểu khá sinh động kết hợp nội dung so sánh, đối chiếu, phân tích, lý giải kèm theo với cách diễn đạt mang tính kỹ thuật, thực nghiệm, đảm bảo văn phong khoa học.

TTXVN nghiệm thu đề tài nghiên cứu, ứng dụng font chữ Khmer Unicode trong xuất bản báo chí ảnh 2Ông Nguyễn Quốc Tuấn, Chủ nhiệm đề tài, Giám đốc Cơ quan TTXVN khu vực phía Nam trình bày tóm tắt quá trình tổ chức thực hiện, báo cáo các sản phẩm khoa học của đề tài dưới hình thức trực tuyến tại đầu cầu TP.HCM

Theo Chủ nhiệm đề tài Nguyễn Quốc Tuấn, trong báo cáo tổng hợp đề tài trình hội đồng lần này, các tác giả đã bổ sung và phân tích kết quả nhiều phép thử, thực nghiệm trong kỹ thuật dàn trang tiếng Khmer được tiến hành tại Phòng đại diện báo ảnh Dân tộc và Miền núi (DT&MN) tại TP.HCM, trên cơ sở kinh nghiệm thực tiễn và kiến thức nền khá vững của một số thành viên đề tài về lĩnh vực chuyên ngành này. Từ đó, đưa ra những đề xuất với các giải pháp và những biện giải có sức thuyết phục liên quan đến giá trị thông số tối ưu trong công cụ Justification của InDesign, hỗ trợ dàn đều văn bản tiếng Khmer; đồng thời, đề xuất ngôn ngữ lập trình mã nguồn mở Wordpress phù hợp với công việc xây dựng hệ thống quản lý tòa soạn dành cho các trang web, báo điện tử tiếng Khmer… Bên cạnh đó, nhóm tác giả cũng bổ sung các nội dung liên quan đến thực trạng ứng dụng font Khmer Unicode của các cơ quan báo chí, truyền thông ở Campuchia, cụ thể là tại Thông tấn xã Campuchia (AKP), làm cơ sở để tiến hành các thực nghiệm và đề xuất các giải pháp kỹ thuật phù hợp, tương thích.

TTXVN nghiệm thu đề tài nghiên cứu, ứng dụng font chữ Khmer Unicode trong xuất bản báo chí ảnh 3Ông Huỳnh Văn Thảo, Thư ký khoa học đề tài, Trưởng đại diện báo ảnh DT&MN tại TP.HCM trả lời các câu hỏi của chuyên gia phản biện và các thành viên Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài NCKH cấp ngành của TTXVN tại phiên họp đánh giá nghiệm thu trực tuyến từ đầu cầu TP.HCM

Nhận xét, đánh giá về báo cáo tổng hợp và kết quả nghiên cứu của đề tài, bên cạnh các ý kiến góp ý về bố cục, thể thức trình bày…, hầu hết các thành viên Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài NCKH cấp ngành của TTXVN đều đánh giá cao tinh thần trách nhiệm và đam mê nghiên cứu của các thành viên đề tài, cho rằng đây là đề tài thú vị, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn công tác chuyên môn, giải quyết được vấn đề đặt ra nên khả năng ứng dụng và chuyển giao là rất khả thi, không chỉ trong nội bộ tòa soạn báo ảnh DT&MN, hoàn toàn có thể chuyển giao cho các đơn vị thông tin khác trong ngành và các cơ quan báo chí ngoài TTXVN.

TTXVN nghiệm thu đề tài nghiên cứu, ứng dụng font chữ Khmer Unicode trong xuất bản báo chí ảnh 4Các thành viên đề tài “Nghiên cứu ứng dụng bộ gõ và bộ font chữ Khmer Unicode trong quy trình sản xuất báo in và báo điện tử của TTXVN” trả lời câu hỏi của Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài NCKH cấp ngành của TTXVN trong phiên họp trực tuyến tại đầu cầu TP.HCM

Ông Nguyễn Đức Vũ, chuyên gia phản biện cho rằng, từ phiên đánh giá giữa kỳ đến giờ, ông vẫn luôn đặt câu hỏi về đóng góp của đề tài khi mà đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài mang tính kỹ thuật thuần túy, thuộc một lĩnh vực hạn hẹp và có độ sâu. Sau khi nghiên cứu kỹ báo cáo tổng hợp đề tài lần này, ông bày tỏ sự tôn trọng đối với nhóm nghiên cứu khi đã thực hiện nghiêm túc phần việc thực nghiệm, so sánh, đối chiếu, đưa ra được giải pháp giúp tăng năng suất gần 6 lần so với cách làm cũ. Trên cơ sở tiến hành nhiều phép thử, thực nghiệm nghiêm túc, các tác giải đã giải quyết được những vấn đề đặt ra xuất phát từ vướng mắc thực tiễn công tác của mình với hai đóng góp quan trọng: Xác lập được các giá trị thông số tối ưu trong các công cụ của InDesign hỗ trợ công tác dàn trang tiếng Khmer đảm bảo chất lượng và năng suất vượt trội; đồng thời, đề xuất và đưa ra hướng dẫn xử lý dữ liệu ngôn ngữ Khmer trên web.

TTXVN nghiệm thu đề tài nghiên cứu, ứng dụng font chữ Khmer Unicode trong xuất bản báo chí ảnh 5Ông Nguyễn Khoa Cát, Phó Giám đốc Công ty TNHH Khải Thiên KTC, Thành viên chính của đề tài trình bày đề xuất và kiến giải của nhóm nghiên cứu về tổ hợp giá trị thông số tối ưu trong công cụ Justification cho dàn trang tiếng Khmer dạng Unicode trên chương trình InDesign

Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu đề tài NCKH cấp ngành của TTXVN, Phó Tổng Giám đốc TTXVN Lê Quốc Minh cho biết ông đánh giá cao quyết định lựa chọn đề tài, cách thức tổ chức thực hiện và những kết quả mà nhóm nghiên cứu đã đạt được trong công việc dàn trang báo in cũng như làm web sử dụng font chữ Khmer, đạt hiệu quả rõ ràng và hết sức ý nghĩa. Ông đề nghị Cơ quan TTXVN khu vực phía Nam triển khai nghiên cứu giai đoạn 2; đồng thời, kết hợp với các cơ quan báo chí, đơn vị liên quan trong và ngoài nước tổ chức các hoạt động khảo cứu, hội thảo, trao đổi, đối thoại như ý kiến đề xuất của chuyên gia phản biện - Phó giáo sư, Tiến sĩ Bùi Chí Trung, nhằm phát huy các thành quả nghiên cứu thông qua hoạt động chuyển giao, ứng dụng cho các cơ quan, đơn vị có nhu cầu. 

TTXVN nghiệm thu đề tài nghiên cứu, ứng dụng font chữ Khmer Unicode trong xuất bản báo chí ảnh 6Các thành viên Hội đồng đánh giá, nghiệm thu đề tài NCKH cấp ngành của TTXVN tại đầu cầu Hà Nội
TTXVN nghiệm thu đề tài nghiên cứu, ứng dụng font chữ Khmer Unicode trong xuất bản báo chí ảnh 7Các thành viên đề tài “Nghiên cứu ứng dụng bộ gõ và bộ font chữ Khmer Unicode trong quy trình sản xuất báo in và báo điện tử của TTXVN” trong phiên họp đánh giá, nghiệm thu trực tuyến tại đầu cầu TP.HCM

“Không nhiều đề tài nghiên cứu nhận được đánh giá chất lượng với sự đồng thuận cao như vậy trong Hội đồng. Đây thực sự là nghiên cứu mang tính khoa học, có thể ứng dụng ngay, thậm chí có thể nghiên cứu để xây dựng thành dịch vụ công nghệ thông tin - hướng đi mới của một số cơ quan báo chí trên thế giới,” Phó Tổng Giám đốc TTXVN Lê Quốc Minh chia sẻ.

 Các sản phẩm của đề tài:

- Hướng dẫn cài đặt keyboard và font Khmer Unicode trên máy vi tính từ Windows 7 về sau.

- Hướng dẫn thiết lập, dàn trang tiếng Khmer dạng font Unicode trên chương trình InDesign CC2019.

- Hướng dẫn thiết lập thông số chuẩn để xuất báo ngữ Khmer dàn bằng InDesign sang file dạng .PDF dùng trong in ấn.

- Hướng dẫn thiết lập, ứng dụng font Khmer Unicode trong xây dựng hệ thống quản lý tòa soạn báo điện tử ngữ Khmer trên nền tảng hệ thống xuất bản mã nguồn mở Wordpress.

Tin, ảnh: Bưng Biền, An Hiếu

(DTMN)
Dân tộc Khmer Dân tộc Khmer

Tên tự gọi: Người Khmer.

Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.

Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).

Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.

Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.

Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.

Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).

Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu (2).JPG
Trang phục bắt mắt, nhiều màu sắc góp phần tôn lên vẻ đẹp của phụ nữ Khmer Nam Bộ. Ảnh An Hiếu

: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.

Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.

Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.

Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.

Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.

Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.

Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.

Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.

Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.

Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.

Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).

Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm.jpg
Các nghệ nhân người Khmer (Cà Mau) diễn tấu với các nhạc cụ trong dàn nhạc trống lớn. Ảnh Huỳnh Lâm

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.

Theo cema.gov.vn

Có thể bạn quan tâm