Tây Ninh là tỉnh nằm ở miền Đông Nam Bộ, có đường biên giới dài 240 km, giáp với các tỉnh Svay Rieng, Prey Veng và Tboung Khmum thuộc Vương quốc Campuchia. Thời gian qua, được sự quan tâm, hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, các địa phương biên giới đã không ngừng đổi thay về diện mạo cũng như đời sống người dân…
Xã nghèo vùng biên “thay áo” mới
Từ một vùng đất hoang sơ đầy khó khăn, ấp Tân Khai, xã Tân Lập (huyện Tân Biên) nay đã đổi thay nhiều với hệ thống giao thông, điện, nước, trường học, trạm y tế được xây dựng khang trang; người dân có nhà ở kiên cố, sạch đẹp, đời sống ngày càng cải thiện.
Nhiều loại trái cây đặc sản được bày bán tại chợ biên giới Tân Lập, huyện Tân Biên (Tây Ninh). Ảnh: An Hiếu
Hệ thống tuyến cáp treo Núi Bà Đen, một trong những công trình tiêu biểu, mở ra nhiều cơ hội để phát triển du lịch ở tỉnh vùng biên Tây Ninh. Ảnh: An Hiếu
Khu du lịch quốc gia Núi Bà Đen nằm trên địa bàn phường Ninh Sơn, Ninh Thạnh, xã Thạnh Tân thuộc thành phố Tây Ninh hiện là khu du lịch tâm linh tiêu biểu của tỉnh vùng biên Tây Ninh. Ảnh: An Hiếu
Dẫn chúng tôi đi thăm Khu dân cư biên giới Chàng Riệc được tỉnh quy hoạch với diện tích 643 ha, tổng kinh phí đầu tư trên 172 tỷ đồng, nơi cư trú của 320 hộ đồng bào các dân tộc Khmer, Chăm, Mường, Thái, Tày…, ông Ngô Minh Tùng, Trưởng ấp Tân Khai phấn khởi chia sẻ: “Đồng bào được hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất canh tác và được vay vốn ưu đãi. Qua nhiều năm sản xuất, đời sống các hộ dân dần ổn định. Đến nay, ấp không còn hộ nghèo, có hộ vươn lên khá giả, 100% hộ có phương tiện nghe nhìn”.
Chia tay ấp Tân Khai, chúng tôi tới ấp Tầm Phô, xã Tân Đông (huyện Tân Châu), nơi sinh sống của hơn 200 hộ đồng bào Khmer. Nếu như 10 năm trước, Tầm Phô còn rất nghèo, đời sống người dân khó khăn thì đến nay, ấp đã thực sự “thay da, đổi thịt” với những căn nhà mới khang trang, xe máy, ô tô xuất hiện ngày càng nhiều.
Theo ông Chum Chòm Ran, Trưởng ấp Tầm Phô: “Nhờ chăm chỉ, chịu khó lao động, biết áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, phát triển chăn nuôi bò sinh sản…, nhiều hộ đã thoát nghèo. Hiện tại, thu nhập bình quân của các hộ trong ấp đạt 250 triệu đồng/hộ/năm”.
Những ngôi nhà sàn mang kiến trúc đặc trưng của đồng bào dân tộc Khmer cùng với tuyến đường giao thông liên ấp ở xã biên giới Tân Đông, huyện Tân Châu (Tây Ninh). Ảnh: An Hiếu
Giờ học tiếng Khmer của trẻ em ở ấp Tầm Phô, xã Tân Đông, huyện Tân Châu (Tây Ninh). Ảnh: An Hiếu
“Cơ sở hạ tầng thiết yếu cấp xã được tỉnh quan tâm đầu tư đã làm thay đổi bộ mặt của nông thôn, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế-xã hội của nhiều xã; nhiều chính sách được thực hiện lồng ghép trong NTM như: hỗ trợ lãi vay phát triển thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ; chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp…”. (Ông Nguyễn Đình Xuân, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tây Ninh)
Đến với các ấp khác như Kà Ốt, Suối Dầm ở xã Tân Đông (huyện Tân Châu), đâu đâu cũng thấy một diện mạo mới. Đời sống người dân có sự thay đổi rõ nét. Bà con đang từng bước ổn định cuộc sống, yên tâm xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh biên giới.
Xây dựng nông thôn mới ở các xã vùng biên
Sau 13 năm xây dựng nông thôn mới (NTM), diện mạo các xã vùng biên Tây Ninh đã có nhiều đổi thay, nhất là tại những vùng có đông đồng bào Khmer sinh sống. Cảm nhận rõ nét nhất về thành tựu xây dựng NTM ở nơi đây là những con đường bê tông sạch đẹp, rộng rãi, vươn đến mọi ngõ xóm. Người dân trực tiếp đóng góp tiền của, ngày công và tình nguyện hiến đất mở đường.
Em Cường Như, nữ sinh Khmer trường THCS Hòa Hiệp, xã biên giới Hòa Hiệp, huyện Tân Biên (Tây Ninh). Ảnh: An Hiếu
Đến nay, 20/20 xã vùng biên trên địa bàn tỉnh đã hoàn thành xây dựng NTM; 100% đường trục liên xã được nhựa hóa, bê tông hóa; 100% hộ được sử dụng điện lưới quốc gia; dịch vụ bưu chính, viễn thông; internet đến hầu hết các ấp… Đặc biệt, huyện Tân Biên đã có 1 xã đạt chuẩn NTM nâng cao. Tại đây, người dân được thụ hưởng đầy đủ các chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà nước như: vốn vay phát triển sản xuất, đào tạo nghề, xây dựng nhà tình nghĩa…
Không chỉ làm thay đổi diện mạo và đời sống người dân, công tác xây dựng NTM tại các xã vùng biên trong tỉnh còn góp phần đáng kể vào thành quả chung trong quá trình thực hiện xây dựng NTM ở Tây Ninh. Nếu như năm 2010, toàn tỉnh chỉ có 1 xã đạt 7 tiêu chí, 68 xã đạt dưới 5 tiêu chí thì đến cuối năm 2022, Tây Ninh đã có 55/71 xã đạt chuẩn NTM, 7 xã đạt chuẩn NTM nâng cao.
Ông Van Na Nắc (bên trái ảnh), người Khmer ở ấp Tầm Phô, xã Tân Đông, huyện Tân Châu (Tây Ninh) giới thiệu với chính quyền địa phương mô hình trồng mía hiệu quả của gia đình. Ảnh: An Hiếu
Theo ông Nguyễn Đình Xuân, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tây Ninh: “Cơ sở hạ tầng thiết yếu ở cấp xã được tỉnh quan tâm đầu tư đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn, tạo nền tảng cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là ở các xã vùng biên”.
Nữ sinh dân tộc Khmer Than Thi Đa và Mao Mum, trường THPT Nội trú Tây Ninh trong không gian nhà sàn truyền thống của người Khmer ở ấp Tầm Phô, xã biên giới Tân Đông (Tân Châu, Tây Ninh). Ảnh: An Hiếu
Thiếu nữ Khmer rạng rỡ trong trang phục truyền thống tại không gian nhà sàn của người Khmer ở ấp Tầm Phô, xã biên giới Tân Đông (Tân Châu, Tây Ninh). Ảnh: An Hiếu
Tây Ninh phấn đấu giai đoạn 2020 - 2025, sẽ có 36 xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 12 xã đạt NTM kiểu mẫu và ít nhất 50% số huyện được công nhận NTM; thu nhập bình quân khu vực nông thôn đạt trên 71 triệu đồng/người/năm; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm xuống dưới 0,5%... Đến năm 2030, 100% xã đạt chuẩn NTM nâng cao, 100% huyện đạt chuẩn NTM và 50% huyện được công nhận NTM nâng cao. Tỉnh sẽ có nền nông nghiệp tiên tiến, hiện đại, đời sống người dân ổn định, không còn hộ nghèo, thu nhập người dân nông thôn tiệm cận và kết nối chặt chẽ, hài hòa với đô thị vào năm 2050.
Thu Hương
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn