Đó là vấn đề được đặt ra tại Tọa đàm về định hướng sửa đổi Nghị định 109, do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh chiều 22/2.
“Cởi trói” cho doanh nghiệp
Sau 6 năm thực hiện, Nghị định 109 đã bộc lộ một số điểm bất cập, cần sửa đổi. Theo một số doanh nghiệp xuất khẩu gạo, trong tất cả các điều kiện, từ công suất kho, công xuất cơ sở xay xát, địa điểm đặt kho, máy xay xát, vùng nguyên liệu… cho đến giấy phép, đăng ký hợp đồng xuất khẩu mới trong Nghị định 109 đều mang tính chất hình thức, không phù hợp với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp hiện nay.
Lấy dẫn chứng từ điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp, ông Ngô Văn Nam, Tổng Giám đốc Công ty TNHH ADC cho biết, hiện công ty này có vùng nguyên liệu khoảng 35.000ha với 6.000 nông dân, hệ thống nhà máy xay xát, kho bãi có sức chứa 30.000 tấn. Mặc dù có đủ điều kiện để đăng ký xin giấy phép xuất khẩu gạo, nhưng công ty này không trực tiếp làm mà có một công ty con để thực hiện điều này.
Theo ông Nam, mỗi lần xin phép xuất khẩu gạo vừa tốn thời gian, vừa tốn chi phí của doanh nghiệp, chi phí này khá đắt đỏ, không dưới 20.000 USD/lần. Chưa hết, mỗi lần xuất khẩu, doanh nghiệp phải báo cáo số liệu cho cơ quan chức năng, rằng xuất khẩu được bao nhiêu, tồn kho bao nhiêu. Những việc này rất nhỏ nhưng rất tốn thời gian, thậm chí doanh nghiệp phải tuyển thêm người chỉ để làm báo cáo.
Do vậy, vị Giám đốc này đề xuất bãi bỏ các điều kiện về kho bãi… để giảm chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp. Riêng các đơn hàng được ký kết theo hình thức tập trung, cần có cơ chế đấu thầu để các doanh nghiệp tư nhân có năng lực được tham gia vào xuất khẩu, thay vì chỉ tập trung cho các doanh nghiệp nhà nước như hiện nay.
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện VEPR cho rằng, việc sửa đổi Nghị định 109 phải theo hướng tới tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Đồng thời, phản ánh được tính đa dạng của thị trường chứ không mang tính rập khuôn mà các doanh nghiệp phải tuân thủ như hiện nay.
Bởi thị trường rất đa dạng, một số doanh nghiệp có thị trường ngách riêng, sản phẩm chất lượng cao, giá cao nhưng không thỏa mãn những điều kiện đó. Do vậy, nếu không “cởi trói” những quy định trên thì các doanh nghiệp này sẽ mất cơ hội xuất khẩu, ngành gạo sẽ khó dịch chuyển trên bậc thang giá trị.
Trên tinh thần đó, VEPR đề xuất bãi bỏ một loạt các quy định về quy mô kho bãi, vùng nguyên liệu… trong Nghị định 109. “Điều này không có nghĩa các doanh nghiệp xuất khẩu trong tương lại không có những điều kiện đó. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh là không cần quy định chặt bằng các văn bản pháp luật. Bởi trên thực tế, để đáp ứng nhu cầu của các thị trường nhập khẩu, tự doanh nghiệp cũng phải đảm bảo một số điều kiện nhất định”, ông Nguyễn Đức Thành nhấn mạnh.
Lo ngại nếu “cởi trói” bãi bỏ các điều kiện về xuất khẩu gạo sẽ dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cạnh tranh bằng cách hạ giá bán, ông Võ Hùng Dũng, Giám đốc VCCI Cần Thơ cho rằng, đó là cách nghĩ của những doanh nghiệp lớn vì chưa có khảo sát nào chứng minh doanh nghiệp nhỏ phá thị trường. Ngược lại công ty lớn tác động thị trường mạnh, nếu họ phá giá thì chắc chắn giá toàn thị trường chao đảo rớt giá theo.
“Ngành gạo cần học cá tra không cần xin giấy phép xuất khẩu, ký hợp đồng không cần xin phép hiệp hội. Xây dựng các chế tài xử phạt những doanh nghiệp vi phạm về chất lượng, cạnh tranh khi xuất khẩu”, ông Dũng nói.
Ưu tiên các quy định nâng chất hạt gạo
Theo các chuyên gia, cốt lõi trong vấn đề cạnh tranh lúa gạo hiện nay là chất lượng, thương hiệu và sản xuất có trách nhiệm. Do vậy, những điều kiện yêu cầu phải có số lượng lớn, thành tích cao trong Nghị định 109 cần được bãi bỏ hoặc sửa đổi, thay vào đó là chú trọng xây dựng các điều kiện về chất lượng, nhằm nâng cao giá trị hạt gạo xuất khẩu.
Bà Đặng Thị Liên, Tổng giám đốc Công ty Lương thực thực phẩm Long An cho rằng, không nên bỏ quy định doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải có vùng nguyên liệu nhưng không nên khống chế về diện tích. Bởi trong tình hình xuất khẩu gạo hiện nay, bắt buộc doanh nghiệp phải có vùng nguyên liệu để có thể truy xuất nguồn gốc. Bản thân doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào những thị trường khó tính cũng phải tự kiểm soát vùng nguyên liệu, từ việc phun thuốc, bón phân của nông dân.
Chẳng hạn, “để xuất khẩu nếp vào Đài Loan (Trung Quốc), doanh nghiệp phải quy hoạch riêng vùng sản xuất. Bởi thị trường này yêu cầu chất lượng khá nghiêm ngặt, doanh nghiệp xuất hàng qua Đài Loan (Trung Quốc). Sau khi đối tác kiểm tra hàng đã đảm bảo chất lượng, đủ tiêu chuẩn nhập kho của họ rồi họ mới trả tiền, nếu không là sẽ mất trắng. Ngay cả thị trường Trung Quốc, mới đây họ cũng bắt đầu yêu cầu các doanh nghiệp Việt phải có vùng trồng, có sổ sách theo dõi mùa vụ, lịch phun thuốc, bón phân… mới được phép xuất khẩu vào nước này”, bà Liên cho biết.
Ông Lê Thanh Tùng, đại diện Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cũng cho rằng, nếu không quy định doanh nghiệp xuất khẩu phải có vùng nguyên liệu thì sẽ dễ xảy ra tình trạng một số doanh nghiệp “hớt váng”, nhảy vào những vùng nguyên liệu đã được xây dựng sẵn, tạo ra cạnh tranh không công bằng. Chỉ cần doanh nghiệp vào sau nâng giá hơn 100 – 200 đồng/kg là nhiều nơi sẽ “phá kèo” hợp đồng với những doanh nghiệp đã kỳ công liên kết, xây dựng vùng nguyên liệu trước đó.
Cũng theo ông Tùng, trong tương lai, ngành gạo Việt Nam cũng sẽ phát triển theo hướng xuất khẩu dựa trên vùng nguyên liệu, doanh nghiệp nào có được vùng nguyên liệu, chăm chút cho chất lượng thì sẽ tồn tại lâu dài. Ngược lại, doanh nghiệp không có vùng nguyên liệu, không kiểm soát được nguồn đầu vào thì chắc sẽ phải chuyển sang ngành nghề khác.
Để nâng cao tính cạnh tranh của ngành gạo, nhiều ý kiến cũng cho rằng, cần có sự cải tổ Hiệp hội Lượng thực Việt Nam, tránh tình độc quyền dẫn tới tình trạng đặc quyền trong kinh doanh lúa gạo.
Cùng với việc bãi bỏ Quy hoạch thương nhân kinh doanh và xuất khẩu gạo, vấn đề sửa đổi Nghị định 109 đã tạo hiệu ứng tích cực trong cộng đồng doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, việc sửa đổi các quy định này cần dựa trên tình hình thực tế của doanh nghiệp, lợi ích của người nông dân để thúc đẩy ngành hàng này phát triển bền vững trong thời gian tới./.
“Cởi trói” cho doanh nghiệp
Sau 6 năm thực hiện, Nghị định 109 đã bộc lộ một số điểm bất cập, cần sửa đổi. Theo một số doanh nghiệp xuất khẩu gạo, trong tất cả các điều kiện, từ công suất kho, công xuất cơ sở xay xát, địa điểm đặt kho, máy xay xát, vùng nguyên liệu… cho đến giấy phép, đăng ký hợp đồng xuất khẩu mới trong Nghị định 109 đều mang tính chất hình thức, không phù hợp với tình hình kinh doanh của doanh nghiệp hiện nay.
Lấy dẫn chứng từ điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp, ông Ngô Văn Nam, Tổng Giám đốc Công ty TNHH ADC cho biết, hiện công ty này có vùng nguyên liệu khoảng 35.000ha với 6.000 nông dân, hệ thống nhà máy xay xát, kho bãi có sức chứa 30.000 tấn. Mặc dù có đủ điều kiện để đăng ký xin giấy phép xuất khẩu gạo, nhưng công ty này không trực tiếp làm mà có một công ty con để thực hiện điều này.
Vận chuyển gạo vào kho chưa 100.000 tấn tại nhà máy chế biến gạo Thoại Sơn, Tập đoàn Lộc Trời. Ảnh: Hồng Nhung - TTXVN |
Theo ông Nam, mỗi lần xin phép xuất khẩu gạo vừa tốn thời gian, vừa tốn chi phí của doanh nghiệp, chi phí này khá đắt đỏ, không dưới 20.000 USD/lần. Chưa hết, mỗi lần xuất khẩu, doanh nghiệp phải báo cáo số liệu cho cơ quan chức năng, rằng xuất khẩu được bao nhiêu, tồn kho bao nhiêu. Những việc này rất nhỏ nhưng rất tốn thời gian, thậm chí doanh nghiệp phải tuyển thêm người chỉ để làm báo cáo.
Do vậy, vị Giám đốc này đề xuất bãi bỏ các điều kiện về kho bãi… để giảm chi phí không cần thiết cho doanh nghiệp. Riêng các đơn hàng được ký kết theo hình thức tập trung, cần có cơ chế đấu thầu để các doanh nghiệp tư nhân có năng lực được tham gia vào xuất khẩu, thay vì chỉ tập trung cho các doanh nghiệp nhà nước như hiện nay.
Kho gạo của nhà máy Thoại Sơn của Tập đoàn Lộc Trời. Ảnh: Hồng Nhung - TTXVN |
Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện VEPR cho rằng, việc sửa đổi Nghị định 109 phải theo hướng tới tạo điều kiện tối đa cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Đồng thời, phản ánh được tính đa dạng của thị trường chứ không mang tính rập khuôn mà các doanh nghiệp phải tuân thủ như hiện nay.
Bởi thị trường rất đa dạng, một số doanh nghiệp có thị trường ngách riêng, sản phẩm chất lượng cao, giá cao nhưng không thỏa mãn những điều kiện đó. Do vậy, nếu không “cởi trói” những quy định trên thì các doanh nghiệp này sẽ mất cơ hội xuất khẩu, ngành gạo sẽ khó dịch chuyển trên bậc thang giá trị.
Vận chuyển gạo xuất khẩu tại Xí nghiệp Chế biến lương thực cao cấp Tân Túc (huyện Bình Chánh). Ảnh: Đình Huệ - TTXVN |
Trên tinh thần đó, VEPR đề xuất bãi bỏ một loạt các quy định về quy mô kho bãi, vùng nguyên liệu… trong Nghị định 109. “Điều này không có nghĩa các doanh nghiệp xuất khẩu trong tương lại không có những điều kiện đó. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh là không cần quy định chặt bằng các văn bản pháp luật. Bởi trên thực tế, để đáp ứng nhu cầu của các thị trường nhập khẩu, tự doanh nghiệp cũng phải đảm bảo một số điều kiện nhất định”, ông Nguyễn Đức Thành nhấn mạnh.
Lo ngại nếu “cởi trói” bãi bỏ các điều kiện về xuất khẩu gạo sẽ dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cạnh tranh bằng cách hạ giá bán, ông Võ Hùng Dũng, Giám đốc VCCI Cần Thơ cho rằng, đó là cách nghĩ của những doanh nghiệp lớn vì chưa có khảo sát nào chứng minh doanh nghiệp nhỏ phá thị trường. Ngược lại công ty lớn tác động thị trường mạnh, nếu họ phá giá thì chắc chắn giá toàn thị trường chao đảo rớt giá theo.
“Ngành gạo cần học cá tra không cần xin giấy phép xuất khẩu, ký hợp đồng không cần xin phép hiệp hội. Xây dựng các chế tài xử phạt những doanh nghiệp vi phạm về chất lượng, cạnh tranh khi xuất khẩu”, ông Dũng nói.
Chế biến gạo xuất khẩu tại Xí nghiệp Chế biến lương thực cao cấp Tân Túc (huyện Bình Chánh). Ảnh: Đình Huệ - TTXVN |
Ưu tiên các quy định nâng chất hạt gạo
Theo các chuyên gia, cốt lõi trong vấn đề cạnh tranh lúa gạo hiện nay là chất lượng, thương hiệu và sản xuất có trách nhiệm. Do vậy, những điều kiện yêu cầu phải có số lượng lớn, thành tích cao trong Nghị định 109 cần được bãi bỏ hoặc sửa đổi, thay vào đó là chú trọng xây dựng các điều kiện về chất lượng, nhằm nâng cao giá trị hạt gạo xuất khẩu.
Bà Đặng Thị Liên, Tổng giám đốc Công ty Lương thực thực phẩm Long An cho rằng, không nên bỏ quy định doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải có vùng nguyên liệu nhưng không nên khống chế về diện tích. Bởi trong tình hình xuất khẩu gạo hiện nay, bắt buộc doanh nghiệp phải có vùng nguyên liệu để có thể truy xuất nguồn gốc. Bản thân doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào những thị trường khó tính cũng phải tự kiểm soát vùng nguyên liệu, từ việc phun thuốc, bón phân của nông dân.
Chẳng hạn, “để xuất khẩu nếp vào Đài Loan (Trung Quốc), doanh nghiệp phải quy hoạch riêng vùng sản xuất. Bởi thị trường này yêu cầu chất lượng khá nghiêm ngặt, doanh nghiệp xuất hàng qua Đài Loan (Trung Quốc). Sau khi đối tác kiểm tra hàng đã đảm bảo chất lượng, đủ tiêu chuẩn nhập kho của họ rồi họ mới trả tiền, nếu không là sẽ mất trắng. Ngay cả thị trường Trung Quốc, mới đây họ cũng bắt đầu yêu cầu các doanh nghiệp Việt phải có vùng trồng, có sổ sách theo dõi mùa vụ, lịch phun thuốc, bón phân… mới được phép xuất khẩu vào nước này”, bà Liên cho biết.
Dây chuyền lau bóng gạo, xay lúa và sấy lúa với công nghệ hiện đại của công ty có khả năng cung ứng 30.000 tấn - 50.000 tấn gạo thành phẩm/tháng. Ảnh: Lê Sen - TTXVN |
Cũng theo ông Tùng, trong tương lai, ngành gạo Việt Nam cũng sẽ phát triển theo hướng xuất khẩu dựa trên vùng nguyên liệu, doanh nghiệp nào có được vùng nguyên liệu, chăm chút cho chất lượng thì sẽ tồn tại lâu dài. Ngược lại, doanh nghiệp không có vùng nguyên liệu, không kiểm soát được nguồn đầu vào thì chắc sẽ phải chuyển sang ngành nghề khác.
Để nâng cao tính cạnh tranh của ngành gạo, nhiều ý kiến cũng cho rằng, cần có sự cải tổ Hiệp hội Lượng thực Việt Nam, tránh tình độc quyền dẫn tới tình trạng đặc quyền trong kinh doanh lúa gạo.
Cùng với việc bãi bỏ Quy hoạch thương nhân kinh doanh và xuất khẩu gạo, vấn đề sửa đổi Nghị định 109 đã tạo hiệu ứng tích cực trong cộng đồng doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, việc sửa đổi các quy định này cần dựa trên tình hình thực tế của doanh nghiệp, lợi ích của người nông dân để thúc đẩy ngành hàng này phát triển bền vững trong thời gian tới./.