Cỏ mần trầu hay mần chầu, tên khác là ngưu cân thảo, thanh tâm thảo, cỏ chỉ tía, cỏ dáng, cỏ bắc, cỏ vườn trầu, cỏ màng trầu... Đông y cho rằng, cây có vị ngọt nhạt hơi đắng, tính mát, không độc, có tác dụng lương huyết, thanh nhiệt (làm ra mồ hôi), tiêu viêm, trừ thấp, cầm máu, tan ứ, mát gan, giải độc, lợi tiểu, hạ áp, hạ sốt và sốt rét, phối hợp với nhân trần làm nước giải khát mùa hè.
Có công dụng trị cao huyết áp, lao phổi, ho khan, sốt âm ỉ về chiều, lao lực mệt nhọc, tiểu tiện vàng và ít một.
Còn dùng cho phụ nữ có thai hỏa nhiệt táo bón, buồn phiền, động thai, nhức đầu, nôn mửa, tức ngực, sốt nóng. Cũng dùng uống trị mụn nhọt, các chứng nhiệt độc, trẻ em tưa lưỡi.
Hiện nay, cỏ mần trầu còn được xếp vào nhóm những cây thuốc quý có tác dụng chữa ung thư đang được nghiên cứu.
Dưới đây là một số cách trị bệnh từ cỏ mần trầu:
Bệnh nhân cao huyết áp, nhổ toàn cây, cả rễ rửa sạch, thái nhỏ. Cần 500g, giã nát. Thêm một chén nước đun sôi để nguội, vắt lấy nước cốt. Lọc lấy nước, có thể cho thêm tí đường cho dễ uống, chia 2 lần uống vào sáng và tối trước khi đi ngủ.
Bệnh nhân lao phổi, ho khan, sốt âm ỉ về chiều, lao lực mệt nhọc, tiểu ít, nước tiểu vàng lấy cỏ mần trầu (40 g), sắc 200 ml uống một lần trong ngày.
Phụ nữ có thai người nóng dẫn đến táo bón, buồn phiền, động thai, nhức đầu, nôn mửa, tức ngực. Ngày sắc 12 - 16 g khô trong 300 ml nước uống 2 - 3 lần.
Trẻ con mụn nhọt, sốt cao, sốt xuất huyết, rôm sảy, ban đỏ, tưa lưỡi lấy cỏ mần trầu tươi (120g) rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống. Cỏ khô 20 g sắc với 400 ml nước còn 100 ml chia uống hai lần.
Nóng trong người, tiểu gắt và vàng, da mẩn đỏ, cỏ mần trầu (40g), sắc uống một lần trong ngày, có thể thêm 20g rễ cỏ tranh sắc chung uống trong ngày.
Trẻ đái dầm lấy 20 g cỏ mần trầu, mùi tàu 20 g, rau ngổ 20 g, cỏ sữa lá nhỏ 10 g thái nhỏ, sắc uống sau bữa ăn chiều.
Ngoài ra, cỏ mần trầu với bồ kết đun lấy nước để gội đầu dùng trị tóc bạc sớm.
Đề phòng viêm màng não truyền nhiễm: Cỏ mần trầu 30 g sắc uống trong ngày. Uống liền 3 ngày, nghỉ 10 ngày, sau đó lại uống tiếp 3 ngày nữa.
Chữa sốt cao co giật, hôn mê: Cỏ mần trầu 120 g. Sắc với 600 ml nước, còn 400 ml, thêm ít muối, cho uống nhiều lần trong 12h.
Mần trầu cũng một vị thuốc trong toa thuốc căn bản: Cỏ tranh 8 g, rau má 8 g, cỏ mực 8 g, cam thảo đất 8 g, ké đầu ngựa 8 g, mần trầu 8 g, gừng tươi 2 g, củ sả 4 g, vỏ quýt 4 g. Tác dụng của mần trầu trong đơn là giải độc, an thai, thanh nhiệt.
Chữa viêm da, vàng da: Cỏ mần trầu tươi 60 g. Rễ cây tổ kén đực (1 loài cây dó) 30 g. Sắc uống.
Chữa phong nhiệt, ghẻ lở, mẩn ngứa: Lấy cỏ mần trầu tươi, rửa sạch giã nát vắt lấy nước cốt uống. Ngày 2 – 3 lần.
Chữa cảm, sốt nóng, người mẩn đỏ, tiểu tiện vàng ít. Mần trầu 16 g, Cỏ tranh 16 g. Sắc uống trong ngày.
Theo lương y Nguyễn Văn Phấn, nổi mụn trong miệng: do ăn uống nhiều đồ cay nóng nên cần thanh nhiệt giải độc lợi tiểu tiện.
Dùng: cỏ mần trầu, cây muỗng trâu, rễ cỏ tranh, rau sam, rau má, rau ngót, rau dền trắng, cỏ mực, cây ké, cây đậu săng, cam thảo nam, mỗi thứ 1 nắm; bí đao 2 khoanh mỏng, củ sả 10 lát mỏng, gừng tươi 3 lát, vỏ quýt 1 cái. Sắc với nước ngập 1 lóng ngón tay còn 1 bát để uống hết. Sắc lần 2, lần 3 để uống trong ngày.
Theo Lương y Vương Đăng, nếu phụ nữ bị băng huyết dùng cỏ mần trầu, cây muồng trâu (thái nhỏ), cam thảo nam, rễ tranh, cỏ mực, rau má, cây ké, mỗi thứ 1 nắm; ngải cứu 10 lá, củ sả 10 lát, gừng sống 10 lát, vỏ quýt 1 vỏ. Đổ ngập nước sắc còn 2 bát, chia 2 lần uống trong ngày.
Có công dụng trị cao huyết áp, lao phổi, ho khan, sốt âm ỉ về chiều, lao lực mệt nhọc, tiểu tiện vàng và ít một.
Còn dùng cho phụ nữ có thai hỏa nhiệt táo bón, buồn phiền, động thai, nhức đầu, nôn mửa, tức ngực, sốt nóng. Cũng dùng uống trị mụn nhọt, các chứng nhiệt độc, trẻ em tưa lưỡi.
Hiện nay, cỏ mần trầu còn được xếp vào nhóm những cây thuốc quý có tác dụng chữa ung thư đang được nghiên cứu.
Cỏ mần trầu giúp chữa viêm da, ghẻ lở, mẩn ngứa... |
Bệnh nhân cao huyết áp, nhổ toàn cây, cả rễ rửa sạch, thái nhỏ. Cần 500g, giã nát. Thêm một chén nước đun sôi để nguội, vắt lấy nước cốt. Lọc lấy nước, có thể cho thêm tí đường cho dễ uống, chia 2 lần uống vào sáng và tối trước khi đi ngủ.
Bệnh nhân lao phổi, ho khan, sốt âm ỉ về chiều, lao lực mệt nhọc, tiểu ít, nước tiểu vàng lấy cỏ mần trầu (40 g), sắc 200 ml uống một lần trong ngày.
Phụ nữ có thai người nóng dẫn đến táo bón, buồn phiền, động thai, nhức đầu, nôn mửa, tức ngực. Ngày sắc 12 - 16 g khô trong 300 ml nước uống 2 - 3 lần.
Trẻ con mụn nhọt, sốt cao, sốt xuất huyết, rôm sảy, ban đỏ, tưa lưỡi lấy cỏ mần trầu tươi (120g) rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống. Cỏ khô 20 g sắc với 400 ml nước còn 100 ml chia uống hai lần.
Nóng trong người, tiểu gắt và vàng, da mẩn đỏ, cỏ mần trầu (40g), sắc uống một lần trong ngày, có thể thêm 20g rễ cỏ tranh sắc chung uống trong ngày.
Trẻ đái dầm lấy 20 g cỏ mần trầu, mùi tàu 20 g, rau ngổ 20 g, cỏ sữa lá nhỏ 10 g thái nhỏ, sắc uống sau bữa ăn chiều.
Ngoài ra, cỏ mần trầu với bồ kết đun lấy nước để gội đầu dùng trị tóc bạc sớm.
Đề phòng viêm màng não truyền nhiễm: Cỏ mần trầu 30 g sắc uống trong ngày. Uống liền 3 ngày, nghỉ 10 ngày, sau đó lại uống tiếp 3 ngày nữa.
Chữa sốt cao co giật, hôn mê: Cỏ mần trầu 120 g. Sắc với 600 ml nước, còn 400 ml, thêm ít muối, cho uống nhiều lần trong 12h.
Mần trầu cũng một vị thuốc trong toa thuốc căn bản: Cỏ tranh 8 g, rau má 8 g, cỏ mực 8 g, cam thảo đất 8 g, ké đầu ngựa 8 g, mần trầu 8 g, gừng tươi 2 g, củ sả 4 g, vỏ quýt 4 g. Tác dụng của mần trầu trong đơn là giải độc, an thai, thanh nhiệt.
Chữa viêm da, vàng da: Cỏ mần trầu tươi 60 g. Rễ cây tổ kén đực (1 loài cây dó) 30 g. Sắc uống.
Chữa phong nhiệt, ghẻ lở, mẩn ngứa: Lấy cỏ mần trầu tươi, rửa sạch giã nát vắt lấy nước cốt uống. Ngày 2 – 3 lần.
Chữa cảm, sốt nóng, người mẩn đỏ, tiểu tiện vàng ít. Mần trầu 16 g, Cỏ tranh 16 g. Sắc uống trong ngày.
Theo lương y Nguyễn Văn Phấn, nổi mụn trong miệng: do ăn uống nhiều đồ cay nóng nên cần thanh nhiệt giải độc lợi tiểu tiện.
Dùng: cỏ mần trầu, cây muỗng trâu, rễ cỏ tranh, rau sam, rau má, rau ngót, rau dền trắng, cỏ mực, cây ké, cây đậu săng, cam thảo nam, mỗi thứ 1 nắm; bí đao 2 khoanh mỏng, củ sả 10 lát mỏng, gừng tươi 3 lát, vỏ quýt 1 cái. Sắc với nước ngập 1 lóng ngón tay còn 1 bát để uống hết. Sắc lần 2, lần 3 để uống trong ngày.
Theo Lương y Vương Đăng, nếu phụ nữ bị băng huyết dùng cỏ mần trầu, cây muồng trâu (thái nhỏ), cam thảo nam, rễ tranh, cỏ mực, rau má, cây ké, mỗi thứ 1 nắm; ngải cứu 10 lá, củ sả 10 lát, gừng sống 10 lát, vỏ quýt 1 vỏ. Đổ ngập nước sắc còn 2 bát, chia 2 lần uống trong ngày.
Theo daidoanket.vn