Nhiều diện tích đất cát khô cằn ở huyện Bắc Bình (Bình Thuận) đã được phủ xanh .Ảnh :moitruong24h.vn |
Thực trạng sa mạc hóa tại Bình Thuận Ông Mai Kiều - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Bình Thuận nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của thời tiết khắc nghiệt, khí hậu khô hạn nhất cả nước, nhiệt độ trung bình năm cao trên 27 độ C; lượng mưa trung bình từ 1.000 đến 1.600 mm/năm (bằng 1/2 lượng mưa trung bình ở Nam bộ). Bình Thuận có hơn 80.000 ha diện tích đất bị hoang mạc hóa (chiếm 11% tổng diện tích đất tự nhiên trên toàn tỉnh). Tình trạng sa mạc hóa ngày càng trầm trọng hơn ở các huyện ven biển. Đáng lo ngại là tốc độ thoái hóa đất diễn ra ngày càng nhanh, đặc biệt là tại các vùng trọng điểm khô hạn của tỉnh như Chí Công, Bình Thạnh, Khu Lê Hồng Phong… Bình Thuận có gió trong mùa khô rất mạnh kèm theo cát từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau đã tạo điều kiện hình thành diện tích đất hoang mạc hóa trải dọc gần 50km bờ biển. Diện tích đất tại Bình Thuận bị sa mạc hóa với tốc độ ngày càng nhanh, một phần nguyên nhân được lý giải là do vùng đất cát ven biển được hình thành từ nhiều thời kỳ, đang bị thoái hóa nặng và trở thành “đất chết” do gió biển và khai thác nước ngầm để sinh hoạt, sản xuất. Độ che phủ nghèo nàn trong khi bề mặt là bãi cát, do vậy khi vào mùa khô tình trạng cát bay xuất hiện tạo thành những đồi cát di động làm tốc độ hoang mạc hóa nhanh hơn. Những đồi cát được hình thành do tác động từ gió có thể đạt đến hàng nghìn ha và cao đến 40-50m. Sau đó lượng cát này dễ dàng sụt xuống phía sườn dốc chuyển dịch dần từ vị trí bờ biển vào trong nội địa.Hệ lụy từ sa mạc hóa Với những vùng đất bị hoang mạc, khi gió mạnh tác động thường xuyên sẽ tạo nên những cơn bão cát dữ dội, di chuyển cát từ ven biển vào đe dọa chôn vùi làng mạc, ruộng đồng trên phạm vi rộng hàng ngàn ha. Nghiêm trọng nhất là khu vực cát di động tại Chí Công, Liên Hương, Bình Thạnh … đe dọa hủy diệt những tiềm năng to lớn của nền sản xuất khu vực, đặc biệt là sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả giá trị như bông vải, nho... Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Thuận, sa mạc hóa luôn liên quan vấn đề sống còn, bởi tính đa dạng hóa của đất không còn. Đơn cử là vùng đất khu Lê (Bắc Bình) ngày trước đất tốt, hoa màu phong phú, đa dạng, động vật còn rừng trú ẩn nhưng sau mấy chục năm đã có sự thay đổi khá rõ. Hiện nay không còn cây rừng, nguồn nước cạn kiệt nên các loài động thực vật không thể sinh sống được. Nước được xem là yếu tố sống còn trong việc đối đầu với sa mạc hóa. Do thiếu hệ thống rừng vành đai chắn gió nên việc di chuyển dễ dàng của cát đã tràn lấp lên những khu vực canh tác, khu dân cư tập trung hoặc tạo nên những cồn cát mới… Những tác động trên đã làm người dân trong vùng ven biển lâm vào cảnh kinh tế khó khăn do không đủ nước tưới để sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi… Tác động biến đổi khí hậu, hạn hán đã gây hậu quả nặng nề đối với sản xuất lâm nghiệp, làm thiệt hại hàng trăm ha rừng. Ông Nguyễn Ngọc Hai - Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận cho biết: Sa mạc hóa đã tác động tiêu cực đến nguồn nước, đất và hệ sinh thái. Chất lượng nguồn nước, đặc biệt là nước ngầm có sự suy thoái rõ rệt trong 30 năm qua, hệ sinh thái không còn phong phú như những năm trước đây. Hậu quả thoái hóa đất làm đất rừng bị rửa trôi, khó khôi phục được rừng, thậm chí có nhiều vùng không thể khôi phục được.
Tăng cường phối hợp chống phá rừng vùng giáp ranh hai tỉnh Bình Thuận - Lâm Đồng. Ảnh: Nguyễn Thanh - TTXVN |
Nỗ lực “hồi sinh” vùng đất sa mạc hóa Những vùng đất bị sa mạc hóa, có thể xem như là “đất chết” bởi không một loại cây nào có thể sống nếu không có sự giúp sức của con người. Với những nỗ lực hồi sinh những vùng đất này, Bình Thuận nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp mở rộng diện tích đất sản xuất cho người dân. Màu xanh của rừng trồng, hoa màu đã dần thay thế những cồn cát. Đi đầu trong cách làm này là việc phát triển thủy lợi. Đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng hơn 270 công trình thủy lợi lớn nhỏ, trong đó có những công trình kiên cố với dung tích hơn 40 triệu m3 như: hồ Sông Quao, hồ Cà Giây, hồ Lòng Sông... Tổng năng lực phục vụ tưới của các công trình được xây dựng là 70.000 ha. Công tác thủy lợi đã góp phần quyết định vào việc chống sa mạc hóa, phát triển nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn tỉnh. Hệ thống thủy lợi đã được kết nối các vùng sản xuất, đưa diện tích gieo trồng được tưới từ 53 ngàn ha (năm 2005) lên 110 ngàn ha (năm 2017). Đồng thời, tỉnh cũng tạo cơ chế, chính sách thông thoáng nên đã kích thích nông dân đầu tư thâm canh, tăng vụ. Các thành phần kinh tế, nhất là các hộ nông dân đã mạnh dạn đầu tư sản xuất, khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế đất đai; cơ cấu cây trồng cũng chuyển đổi từng bước theo hướng sản xuất hàng hóa. Từ khi các công trình thủy lợi đưa vào hoạt động đã phát huy hiệu quả tích cực, những vùng đất khô cằn của các huyện Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc… đã nhanh chóng hồi sinh. Ông Nguyễn Ngọc Hai - Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận cho biết: Thành công từ việc đưa vào sử dụng các công trình thủy lợi không chỉ giúp địa phương chủ động tưới cho diện tích canh tác mà còn góp phần giảm thiểu tình trạng thiếu nước tưới, chuyển đổi cơ cấu vụ mùa và tăng diện tích canh tác nông nghiệp, qua đó tạo việc làm và tăng thu nhập cho người dân. Hàng nghìn hộ dân được thụ hưởng từ những công trình thủy lợi đã thoát nghèo, vươn lên làm giàu từ mảnh đất của mình. Năng suất, chất lượng các sản phẩm nông nghiệp được nâng lên, sản lượng lương thực tăng liên tục hàng năm. Bằng nguồn vốn Trung ương và địa phương, tỉnh đã nỗ lực xây dựng dải rừng phòng hộ ven biển chạy dài từ huyện Tuy Phong đến huyện Hàm Tân với hơn 8.000ha, chủ yếu là cây phi lao, xoan chịu hạn, keo… Đây là những loại cây đang phát triển tốt trên đất cát di động và bán di động ven biển. Những dải rừng này bước đầu đã mang lại tác dụng lớn để phòng hộ chắn gió, cải thiện môi trường khu vực, phát triển và ổn định được mùa màng, đảm bảo cuộc sống cho người dân ven biển. Bên cạnh đó, nhiều đề tài chống sa mạc hóa được thử nghiệm thành công và được đánh giá cao như thu trữ nước mưa trên cát; trồng rừng chống cát bay, tăng độ che phủ; tăng cường công tác phát triển hệ thống thủy lợi; thực hiện các chương trình sản xuất nông nghiệp bền vững; chuyển giao các biện pháp canh tác hợp lý. Những thành công bước đầu của các dự án này đã mở ra khả năng chế ngự sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sẽ biến hàng ngàn ha “đất chết” thành những khu rừng sinh thái phục vụ du lịch, sản xuất. Ngày nay đi khắp các nơi khô cằn nhất trong tỉnh, hình ảnh cát trắng bỏng chân, những cánh đồng bụi bay mù mịt không còn nữa mà là màu xanh bạt ngàn của những cánh đồng rộng lớn quanh năm xanh tốt. Các loại rau màu như mì, mía, bắp… được nông dân xen canh quanh năm. Có nguồn nước, người dân đã tận dụng các ao đầm để nuôi cá, mang lại nguồn lợi thủy sản nước ngọt to lớn cho tỉnh. Cuộc sống của người dân Bình Thuận đã thay đổi từng ngày. Theo đánh giá của các nhà khoa học, để các giải pháp chống sa mạc hóa phát huy hiệu quả cao nhất, nhà nước cần có chính sách hài hòa giữa phát triển kinh tế và trách nhiệm bảo vệ môi trường, đời sống cộng đồng dân cư; đẩy mạnh trồng rừng và phát triển mô hình “nông nghiệp trú ẩn” hay “nông-lâm kết hợp”. Ngành nông nghiệp chuẩn bị sẵn sàng thích ứng với điều kiện khí hậu biến đổi, bằng các giải pháp cơ cấu thời vụ, giống, phương thức canh tác theo hướng sử dụng ít nước. Bên cạnh đó, việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động cộng đồng nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường; ngăn chặn nạn phá rừng cũng phải được các ngành chức năng của tỉnh quan tâm thực hiện hiệu quả hơn.
Nguyễn Thanh