Cách đây 51 năm, 4 vị sư là Danh Tấp, Lâm Hùng, Danh Hom, Danh Hoi và người dân trên địa bàn tỉnh Rạch Giá (nay là tỉnh Kiên Giang) tổ chức biểu tình đấu tranh đòi chính quyền Mỹ - Ngụy không được bắt chư tăng đi lính và bắn phá chùa chiền. Cuộc biểu tình bị đàn áp, 4 vị sư bị địch bắn bị thương và hy sinh.

Tưởng nhớ sự anh dũng hy sinh của 4 vị sư và đồng bào, đầu năm 1976, Nhà nước đã khởi công xây dựng Tháp 4 sư liệt sĩ, vào tháng 9/1990 được Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Di tích Tháp 4 sư liệt sĩ là niềm tự hào của đồng bào Khmer nói riêng và người dân tại tỉnh nói chung. Theo Hòa thượng Danh Đổng, Trưởng Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Kiên Giang, những năm 70 của thế kỷ XX, chính quyền Mỹ - Ngụy khống chế không cho chùa tổ chức sinh hoạt tôn giáo và bắt sư sãi, chư tăng đi lính. Trước hành động phi nghĩa của chính quyền Mỹ - Ngụy, ngày 10/6/1974, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Rạch Giá, Ban Khmer vận và Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh, 4 vị sư gồm: Danh Tấp, Lâm Hùng, Danh Hom, Danh Hoi cùng với khoảng 3.000 chư tăng, phật tử cùng người dân quận Kiên Thành, tỉnh Rạch Giá (nay thuộc phường Rạch Sỏi, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang) tổ chức biểu tình. Đây là cuộc đấu tranh chính trị rộng lớn, được đông đảo đồng bào Khmer và các dân tộc khu vực Tây Nam Bộ ủng hộ; là một trong những cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc Tổng tiến công Mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
“Cuộc đấu tranh ngày 10/6/1974 là cuộc đấu tranh chính trị rộng lớn của quân và dân, được sự hưởng ứng của chư tăng đồng bào Khmer và người dân trong tỉnh. Tuy bị đàn áp, 4 vị sư bị địch bắn bị thương và hy sinh, nhưng cuộc biểu tình đã trở thành mốc son trong lịch sử đấu tranh hào hùng chư tăng, phật tử, đặc biệt sự hy sinh của 4 vị sư đã trở thành niềm tự hào của đồng bào và người dân trong sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc”, Hòa thượng Danh Đổng nhấn mạnh.

Hòa thượng Danh Đổng cũng cho biết, sau ngày thống nhất đất nước, Nhà nước công nhận liệt sĩ và cấp Bằng Tổ quốc ghi công cho 4 vị sư, đồng thời khởi công xây dựng Tháp 4 sư liệt sĩ. Sau khi tháp hoàn thành, Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh cải táng và đưa hài cốt vào tháp ngày 15/3/1987. Đến ngày 20/9/1990, Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận Tháp 4 sư liệt sĩ là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Năm 2014, nhân kỷ niệm 40 năm ngày 4 vị sư hy sinh, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã truy phong giáo phẩm Hòa thượng cho 4 vị sư Danh Tấp, Lâm Hùng, Danh Hom, Danh Hoi.
Trải qua nhiều biến cố lịch sử cũng như sự thăng trầm của thời cuộc, sự hy sinh của 4 vị Hòa thượng vẫn được tôn vinh trong lòng bao thế hệ, là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo trong tinh thần phụng sự đạo pháp và dân tộc. Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh Kiên Giang phối hợp với chính quyền địa phương, ngành chức năng tổ chức lễ tưởng niệm ngày hy sinh vì Tổ quốc của 4 vị sư.
Bà Thị Nhung, xã Minh Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang chia sẻ, hơn 15 năm qua, mỗi khi đến dịp Tết cổ truyền Chôl Chnăm Thmây của đồng bào Khmer và ngày tưởng niệm 4 vị Hòa thượng (ngày 10/6), bà cùng người thân và người dân địa phương vượt hơn 10km, mang theo hoa quả, làm bánh dân gian truyền thống để thắp hương.
“Cha và chú của tôi cũng tham gia kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cũng đã hy sinh, vì vậy, tôi và người thân rất quý trọng nền hòa bình, độc lập, tự do của dân tộc. Tôi thường xuyên nhắc nhở con cháu và người dân trong xóm tinh thần yêu nước, đoàn kết, hỗ trợ nhau phát triển kinh tế”, bà Nhung nói. Ông Lâm Minh Công, Bí thư Huyện ủy Châu Thành (Kiên Giang) cho biết: Tháp 4 sư liệt sĩ nằm tại khu phố Minh Phú, thị trấn Minh Lương, huyện Châu Thành là nơi thờ tự hài cốt 4 vị sư liệt sĩ. Trước đây, di tích xuống cấp, nay đã được Ủy ban nhân dân tỉnh đầu tư, tôn tạo với các hạng mục giảng đường, cổng rào, nhà trưng bày truyền thống, bia tưởng niệm, nhà bếp, nhà vệ sinh, cây xanh, đường nội bộ…

“Hằng năm, vào ngày 10/6, Ủy ban nhân dân huyện phối hợp Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước tỉnh tổ chức lễ tưởng niệm 4 vị sư liệt sĩ, thu hút đông đảo người dân tham dự. Tháp 4 sư liệt sĩ được đồng bào Khmer trong tỉnh xem là biểu tượng của truyền thống yêu nước dân tộc. Đây cũng là địa chỉ về nguồn của nhiều thế hệ học sinh, sinh viên trên địa bàn tỉnh Kiên Giang”, ông Lâm Minh Công cho hay. Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo tỉnh Kiên Giang Danh Phúc cho biết, Tháp 4 sư liệt sĩ được xây dựng nhằm tưởng nhớ tinh thần anh dũng hy sinh của bốn nhà tu hành Phật giáo Nam tông Khmer nói trên, là một bằng chứng lịch sử, đã được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia, có ý nghĩa giáo dục truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm đối với thế hệ trẻ, nhất là thế hệ trẻ tỉnh Kiên Giang, trong đó có các thanh thiếu niên người Khmer", ông Phúc nhấn mạnh./.
Văn Sĩ
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.

Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.

Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn
