Tại tỉnh Sóc Trăng, số lượng người tham gia tập luyện thể dục, thể thao hàng năm tăng đáng kể. Cùng sự quan tâm, tạo điều kiện của các cấp ủy và chính quyền, phong trào thể dục thể thao quần chúng ở Sóc Trăng tiếp tục có những chuyển biến tích cực, thu hút đông đảo người dân tham gia tập luyện. Nhiều địa phương trong tỉnh vẫn duy trì khá tốt các môn thể thao thế mạnh của mình như: thị xã Vĩnh Châu với môn bóng chuyền, đua thuyền rồng; huyện Thạnh Trị, Mỹ Xuyên, Long Phú, Trần Đề, thành phố Sóc Trăng… với các môn võ cổ truyền, bóng đá, cầu lông, quần vợt, thể dục dưỡng sinh, bóng bàn, bi sắt... Ở những địa bàn đông đồng bào dân tộc Khmer, các cấp, ngành cũng như địa phương đã quan tâm đầu tư sân bãi phục vụ nhu cầu tập luyện của nhân dân.
Ông Diệp Đăng Khoa, Phó Giám đốc Trung tâm Thể thao huyện Long Phú cho biết, được sự quan tâm của các cấp, các ngành hoạt động thể dục thể thao vùng đồng bào dân tộc trên địa bàn huyện như xã Long Phú, thị trấn Long Phú, xã Tân Hưng, xã Trường Khánh… đã phát triển hơn trước. Nếu trước đây, bà con ở các xã này chỉ tập trung cải thiện thu nhập, thì nay đã quan tâm nhiều hơn đến việc rèn luyện sức khỏe thông qua tập luyện thể dục thể thao. Ngoài các môn thể thao truyền thống như kéo co, đẩy gậy, bơi xuồng… ở những địa phương này thời gian qua còn thu hút được nhiều người chơi bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, bóng bàn và đặc biệt là môn bi sắt.
Để thúc đẩy hoạt động thể dục thể thao ở các xã, thị trấn có đông đồng bào Khmer sinh sống, hàng năm, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh, các Trung tâm Thể thao huyện thường xuyên phối hợp với các địa phương tổ chức các giải đấu, hoạt động thể dục thể thao đặc trưng của người dân nơi đây. Không chỉ thu hút được nhiều người tham gia mà qua đó còn giúp địa phương kịp thời phát hiện các vận động viên có năng khiếu ở từng môn thể thao của đồng bào dân tộc.
Xã Long Phú là địa phương có đông đồng bào dân tộc Khmer. Bên lề những con đường lớn, trên những khoảnh đất trống, rất nhiều người dân của xã chơi bi sắt, nhiều người còn tự làm sân bi sắt tại nhà. Những cuộc tranh tài diễn ra rất hào hứng với những bi thủ đủ mọi lứa tuổi, từ thanh niên, trung niên đến cả những người tuổi đã lục tuần.
Là bi thủ có những đóng góp vào thành tích tốt của thể dục thể thao huyện Long Phú, anh Huỳnh Văn Siêng, ở ấp Nước Mặn II, xã Long Phú chia sẻ: Thể thao không chỉ là hoạt động vui chơi giải trí sau những giờ lao động mệt nhọc, mà còn là cách rèn luyện sức khỏe rất bổ ích. Từ thanh, thiếu niên, kể cả người già và trẻ em ai cũng chọn cho mình một hình thức luyện tập thể dục thể thao phù hợp nhằm nâng cao sức khỏe, đồng thời còn tổ chức giao lưu, gặp gỡ, học hỏi trong thi đấu giữa các phum, sóc khác, qua đó góp phần bảo tồn và phát triển thể thao truyền thống của dân tộc, xây dựng đời sống văn hóa ngày càng phong phú, lành mạnh và tránh xa các tệ nạn xã hội.
Ấp Khoan Tang, thị trấn Long Phú, có trên 99% hộ đồng bào Khmer sinh sống. Chính quyền thị trấn Long Phú đã ưu tiên, tập trung nhiều nguồn lực để phát triển thể dục thể thao ở ấp này. Anh Nguyễn Thanh Vân, công chức phụ trách văn hóa – xã hội thị trấn Long Phú cho biết: Ở các ấp có đông đồng bào Khmer sinh sống, Đảng ủy, UBND thị trấn bên cạnh công tác phát triển thể dục thể thao quần chúng trong các địa bàn dân cư, còn đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao trong các trường học. Nhờ đó, số người tham gia tập luyện thường xuyên, số gia đình thể thao, hay câu lạc bộ thể thao tăng dần hàng năm.
Ngoài các môn thể thao truyền thống như kéo co, đẩy gậy, bi sắt, người dân ấp Khoan Tang nói riêng, thị trấn Long Phú nói chung, còn có thế mạnh rất lớn ở môn đua ghe ngo nam, nữ và đã từng đạt thứ hạng cao trong các giải đua cấp huyện và tỉnh.
Để thúc đẩy phong trào thể dục thể thao ở các vùng có đông đồng bào dân tộc, một số trường học cũng thành lập các câu lạc bộ dành cho các môn thể thao dân tộc. Thầy Lâm Te, Phó Hiệu trưởng Trường Trung học Cơ sở Dân tộc nội trú Long Phú chia sẻ, trong các kỳ Hội khỏe Phù đổng cấp huyện, cấp tỉnh, nhận thấy đẩy gậy và kéo co là môn thể thao truyền thống của đồng bào dân tộc, dễ chơi lại ít phải đầu tư các trang thiết bị tập luyện, trường đã thành lập Câu lạc bộ đẩy gậy để học sinh có sân chơi lành mạnh và giữ gìn văn hóa truyền thống.
Từ năm 2011 đến nay, số người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Long Phú tham gia tập luyện thể dục thể thao thường xuyên tăng từ 0,90% lên 1,56%. Số gia đình tập luyện thể dục thể thao cũng tăng từ 0,6% lên 1,6%. Các địa phương đã linh hoạt vận động bà con cùng tham gia tập luyện, giao lưu thi đấu thể thao thường xuyên. Hệ thống giải đấu ở từng địa phương được hình thành và duy trì đều đặn hàng năm trở thành nếp sinh hoạt văn hóa truyền thống. Nhờ vậy, phong trào thể dục thể thao ở vùng đồng bào dân tộc Khmer Sóc Trăng đang ngày càng phát triển.
Trung Hiếu
Tên tự gọi: Người Khmer.
Tên gọi khác: Cur, Cul, Cu Thổ, Việt gốc Miên, Khơ Me K’rôm.
Dân số: 1.260.640 người, (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009).
Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ Me.
Lịch sử: Trước thế kỉ XII người Khmer và văn hoá của họ giữ vai trò chủ thể ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hoạt động sản xuất: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và trồng lúa nước. Trong bộ công cụ nông nghiệp khá hoàn thiện và hiệu quả của họ, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lí sinh thái Nam bộ như cái phảng thay cho cày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để vơ cỏ. Cây nọc cấy (Sơ chal) dấu vết của chiếc gậy chọc lỗ xa xưa, tạo ra lỗ để cắm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng, và cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa.
Người Khmer có nghề đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm. Kĩ thuật gốm đơn giản, công cụ chính là hòn kê (K’leng), bàn dập (Chơ), chưa dùng bàn xoay, không có lò nung cố định, gốm mộc, không màu,với độ nung thấp. Sản phẩm gốm chủ yếu là đồ gia cụ, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng.
Ăn: Người Khmer trồng hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau, họ thường ăn cơm tẻ và cơm nếp. Thức ăn hằng ngày có tôm, cá nhỏ, ếch, nhái, rau, củ. Họ chế biến rất nhiều loại mắm: mắm ơn Pứ làm bằng tôm tép, mắm Pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, các sọc, cá trê, tôm tép, mắm pơ inh làm bằng cá sặc, nhưng nổi tiếng nhất là mắm B’hóc làm bằng cá lóc, cá sọc, cá trê, tôm tép trộn với thính và muối. Gia vị ưa thích nhất là vị chua (từ quả me hay mè) và cay (hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri...).
Mặc: Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng lụa tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Những người đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, nam giới khá giả đôi khi mặc quần áo bà ba màu trắng với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu, hoặc vắt qua vai. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Chú rể mặc áo xà rông, áo màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, bên vai trái quàng chiếc khăn dài trắng (Kăl xinh) và con dao cưới (Kầm pách) ngụ ý để bảo vệ cô dâu. Còn cô dâu mặc Xăm pốt (váy)màu tím hay màu hồng, áo dài màu đỏ, quàng khăn và đội mũ cưới truyền thống. áo dài Khơ Me (Wện) gần gũi với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài dưới gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải (thường hoặc màu) kéo dài từ nách đến gấu áo.
Ở: Họ sống ở đồng bằng sông Cửu Long, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam bộ và tụ cư trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây Nam giáp biên giới Cam Pu Chia. Người Khmer trước đây ở nhà sàn, nay sống trong các ngôi nhà đất.
Phương tiện vận chuyển: Thường sử dụng xe bò (cộ), xe lôi bánh gỗ, hoặc bánh hơi, đi lại trên đường hay những chân ruộng khô, vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch.
Sống trong môi trường chằng chịt kênh, rạch, ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại: xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền " tắc rán" hoặc thuyền "đuôi tôm" chạy máy. Ðặc biệt nhất là chiếc ghe Ngo (Tuộc mua) dài 30m, làm bằng gỗ sao, có từ 30-40 tay chèo, mũi và hai bên thành thuyền có vẽ hình ó biển, voi, sư tử, sóng nước. Ghe Ngo chỉ sử dụng trong dịp lễ chào mặt trăng OK-ang Bok (tháng 10 âm lịch), còn ngày thường họ gửi trong chùa, được cư dân trong các "Phum", "Sóc" coi như vật thiêng.
Quan hệ xã hội: Gia đình nhỏ một vợ một chồng, ở riêng và là đơn vị kinh tế độc lập, có nơi 3-4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ.
Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau. Những họ do triều Nguyễn trước đây đặt ra như: Danh, Kiên, Kim, Sơn, Thạch. Những họ tiếp thu từ người Việt và người Hoa như: Trần, Nguyễn, Dương, Trương, Mã, Lý... Lại có những họ thuần tuý Khmer như U, Khan, Khum. Tình trạng ngoại tình, đa thê, li hôn hoặc loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ, ít xẩy ra hoặc tuyệt đối nghiêm cấm.
Hôn nhân: Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thoả thuận của con cái. Cưới xin trải qua 3 bước: làm mối, dạm hỏi và lễ cưới, được tổ chức ở bên nhà gái. Sau đó, người con trai phải ở bên nhà vợ một thời gian. Trải qua ít năm hoặc khi có con, họ ra ở riêng, nhưng vẫn cư trú bên ngoại.
Ma chay: Tục hoả thiêu đã có từ lâu. Sau khi thiêu, tro được giữ trong tháp "Pì chét đẩy", xây cạnh ngôi chính điện trong chùa.
Lễ tết: Có 2 lễ lớn trong năm.
Tết Chuôn chnam Thmây tổ chức từ ngày 1 đến ngày 3 đầu tháng Chét (theo Phật lịch) vào khoảng tháng 4 dương lịch.
Lễ chào mặt trăng (ok ang bok) tổ chức vào rằm tháng 10 âm lịch, trong lễ này có đua thuyền Ngo giữa các phum - sóc.
Thờ cúng: Thờ Phật, tổ tiên và thực hành các nghi lễ nông nghiệp như cúng thần ruộng (neak tà xiê), gọi hồn lúa (ok ang leok), thần mặt trăng (ok ang bok).
Học: Con trai khi lớn đều được cha mẹ gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm. Họ được học kinh Phật, học chữ Khmer ở các trường chùa. Chỉ sau nghĩa vụ tu hành, họ mới được phép hoàn tục và mới có quyền được lập gia đình.
Văn nghệ: Người Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười, có một nền sân khấu truyền thống như Dù kê, Dì kê, một nền âm nhạc vừa có nguồn gốc Ấn Ðộ, vừa có nguồn gốc Ðông Nam Á. Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer. Trong các ngôi chùa Khmer của Phật giáo tiểu thừa (Thérévada), ngoài tượng Ðức Phật Thích Ca được tôn thờ duy nhất, chiếm vị trí trung tâm khu chính điện, vẫn tồn tại một hệ thống phong phú linh thần, linh thú - những dấu vết tàn dư còn lại của Bà la môn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Theo cema.gov.vn